Quỷ Tam Quốc

Chương 989. Cướp hoặc bị cướp

Tô Song vốn là người Trung Sơn, tổ tiên từng là một tiểu sĩ đại phu phụ thuộc vào nước Triệu thời Xuân Thu Chiến Quốc. Sau khi nước Triệu diệt vong, họ trở thành dân mất nước. Mãi đến khi nhà Tần sụp đổ, họ mới có cơ hội trỗi dậy, lấy việc buôn bán làm nghề sinh nhai, chủ yếu là buôn bán ngựa và gia súc từ đất Hồ. Sau đó, gia tộc Tô di chuyển đến Quan Trung.
Pháo đài của nhà họ Tô không lớn, nhưng cũng không nhỏ, với khoảng hơn năm trăm người, thuộc loại trung bình. Pháo đài nằm giữa hai con sông Mang Thủy và Lạc Cốc Thủy, một vị trí khá tốt, nên trong vài lần chiến loạn đã may mắn không bị ảnh hưởng.
Tuy nhiên, trước là loạn Hoàng Cân, sau là loạn Đổng Trác, rồi lại đến loạn Tây Lương. Những đợt quân lính nhỏ lẻ liên tiếp quét qua, khiến cho việc buôn bán không thể tiến hành thuận lợi. Mặc dù có vài lần yên bình ngắn ngủi, Tô Song cũng cố mang gia súc đi buôn bán, nhưng thường xuyên bị quân loạn chặn ép, ép giá mua rẻ thì đã là may, có khi còn bị dí dao vào cổ cướp đoạt tài sản...
Cuối cùng, Tô Song quyết định dẫn toàn bộ người trong pháo đài, gồm cả người già, phụ nữ và những thanh niên khỏe mạnh, đóng cửa không ra ngoài, cố thủ trong thung lũng nhỏ ở giữa Mang Thủy, hy vọng có thể sống sót qua thời loạn.
Trong hoàn cảnh hỗn loạn ở Quan Trung hiện tại, không thể nói rằng cuộc sống sẽ yên bình. Nhưng Tô Song, cùng khoảng ba mươi đến năm mươi người thân tín đã theo ông đi khắp nơi, vẫn đang cố gắng đấu tranh để sinh tồn trong một mảnh đất nhỏ hẹp.
Vì Tô Song có danh tiếng khá tốt trong vùng, nên một số dân chạy loạn cũng đến nương nhờ, dựng lều đất hoặc lều cỏ dọc theo bờ Mang Thủy, sống nhờ vào việc săn bắn, câu cá qua ngày.
Hàng ngày, Tô Song thấy cảnh khốn khổ của những người dân chạy loạn, nên thỉnh thoảng cũng mang lương thực ra nấu vài nồi cháo loãng, thêm vài con cá hay trai hến từ sông Mang Thủy, để giúp họ kéo dài sự sống, qua ngày nào hay ngày ấy. Dần dần, số dân tị nạn tụ tập bên bờ Mang Thủy ngày càng đông, từ vài trăm người ban đầu, giờ đã lên tới hai ba nghìn người...
Không ít người đã khuyên Tô Song giương cờ lên, tổ chức số dân tị nạn này, vừa để tự vệ, vừa có thể tranh thủ thời cuộc, có khi còn kiếm được chút danh vọng.
Nhưng Tô Song suy đi tính lại, vẫn chưa quyết định làm như vậy. Thứ nhất, ông vốn là thương nhân, không rành về quân sự. Thứ hai, ông cảm thấy rằng dù có giương cờ lên, cũng chưa chắc đã được ai công nhận, nói gì đến việc được xếp vào hàng ngũ chính thống.
Hơn nữa, nhìn vào đám dân chạy loạn toàn là người già yếu, bệnh tật, sống lay lắt từng ngày, dù có tổ chức lại, cũng khó có tác dụng gì.
Hàng ngày, Tô Song đều lo lắng khi nhìn những đoàn quân lính mặc áo giáp, trang bị vũ khí đầy đủ, lúc thì chạy về phía đông, lúc thì tiến về phía tây, những bộ mặt tràn đầy sát khí khiến ông không khỏi băn khoăn về việc pháo đài của mình có thể cầm cự được bao lâu nếu bị tấn công.
Khi quân Tây Lương chiếm thế thượng phong, Tô Song cũng từng có ý định dựa vào Tây Lương, nhưng khi thử phái người ra ngoài tìm hiểu tình hình, không lâu sau quân Tây Lương đã rơi vào tình trạng bị bao vây bốn phía. Nghe nói có kỵ binh từ đâu đó tới, giết chết một vị hầu tước của Tây Lương, dường như quân Tây Lương sắp sụp đổ đến nơi.
Những đoàn quân lính ở quanh Trường An cứ đi lại không ngừng, không những làm tắc nghẽn đường sá mà còn bắt giữ một vài người Tô Song phái ra thăm dò để làm phu dịch. Những người còn lại phải chạy trốn về pháo đài trong hoảng loạn. May mắn là các phe quân sự không coi trọng lực lượng nhỏ bé của Tô Song, ngoài việc thỉnh thoảng đến xin lương thực, không ai gây thêm rắc rối cho pháo đài của ông.
Thế là con đường dựa vào Tây Lương coi như đã bị chặn. Nhưng quân lính quanh Quan Trung vẫn chưa giải tán, cứ vài ngày lại có các đoàn thám thính và xe chở hàng đi qua, dường như cuộc chiến sẽ còn kéo dài rất lâu.
Hàng ngày, Tô Song chỉ có thể ngồi trong pháo đài, nhìn ngó ra ngoài mà bất lực. Dù muốn di dời cũng đã quá muộn. Vị trí pháo đài tuy tốt, nhưng giờ lại trở thành một chướng ngại. Một bên là Mang Thủy, một bên là Lạc Cốc Thủy, phía nam là dãy núi Tần Lĩnh và khu vực Thái Bạch Sơn, đi đâu cũng không tiện. Hơn nữa, trong thung lũng của pháo đài còn có những con ngựa được giấu kỹ. Nếu có dấu hiệu di chuyển, các tướng lĩnh chắc chắn sẽ không tha, không những không thể đi, mà còn có nguy cơ mất mạng.
Bây giờ có phải thời loạn hay không, Tô Song không dám chắc, nhưng ông chắc chắn rằng, hiện tại, ai cũng sống trong khổ cực.
Dù trong pháo đài, Tô Song là người đứng đầu, không thiếu thốn về ăn mặc, nhưng ngày qua ngày, không ai biết tình hình này sẽ kéo dài bao lâu. Để đề phòng, mọi người đã bắt đầu sống cuộc sống nửa gạo, nửa rau, còn các món xa xỉ như thịt cá thì không còn nghĩ tới.
Bởi lẽ, ai cũng biết rằng, lương thực chính là điều quan trọng nhất. Dù khổ cực đến đâu, nếu có lương thực, họ vẫn có thể cầm cự. Trong thời loạn, bao nhiêu vương tôn công tử, bao nhiêu quan viên cao cấp đã phải chịu cảnh lưu lạc, chuyện này Tô Song đã từng chứng kiến không ít.
Cảnh sống này còn kéo dài bao lâu, Tô Song không biết.
Nhưng vào ngày hôm ấy, đoàn quân Tây Lương ập đến đã cho Tô Song câu trả lời.
Mã Siêu không trực tiếp cho quân tấn công pháo đài, mà ra lệnh cho lính cưỡi ngựa dọc theo Mang Thủy, lùa hết dân tị nạn đang ẩn náu trong các lều cỏ và hầm đất ra ngoài. Những người dân như đàn bò, đàn cừu bị xua đuổi, càng lúc càng nhiều người mất bình tĩnh, chỉ biết chạy theo dòng người trong hoảng loạn.
Những vệ sĩ thân cận của Mã Siêu đứng hai bên, chém giết tất cả những ai vô tình xông vào họ.
Đối với những người dân rách rưới này, Mã Siêu không hề có hứng thú vung cây thương dài của mình. Anh chỉ nghe nói ở vùng này có một pháo đài, và trong thung lũng sau pháo đài cất giấu nhiều ngựa...
Từ sau khi Mã Đằng dẫn một lượng lớn ngựa đến Tân Phong, quân Tây Lương của Hàn Toại đã thiếu ngựa nghiêm trọng. Vì vậy, khi nhận được tin này, Mã Siêu đã dẫn quân đến ngay.
Dù Hàn Toại đã dặn rằng phải cẩn trọng, không như trước nữa, giờ đây đã có hiệp ước đình chiến, không thể cứ tấn công các thành trì hay cướp bóc xung quanh, nếu không sẽ bị coi là phá hoại hiệp ước, mất đi danh dự và tín nghĩa. Nhưng khi nghe nói có ngựa, Mã Siêu đã bỏ qua tất cả những lời dặn dò của Hàn Toại.
Ngựa không giống như lương thực, mà thậm chí trong một số trường hợp còn là tài nguyên khan hiếm. Nếu để rơi vào tay quân Quan Trung, họ sẽ tăng cường sức mạnh. Nhưng nếu rơi vào tay quân Tây Lương, những người lính bộ binh sẽ có thể chuyển thành kỵ binh. Sự khác biệt này khiến Mã Siêu, vì nỗi căm hờn báo thù, bỏ qua mọi hậu quả và vấn đề đạo đức.
Dù sao thì trước hết cứ cướp đã!
Mã Si
êu tưởng rằng tấn công pháo đài ít nhất sẽ gây tổn thất chút ít cho quân lính, nhưng không ngờ bên bờ Mang Thủy lại tập trung nhiều dân chạy loạn như vậy. Những người dân tị nạn này đương nhiên trở thành lực lượng hỗ trợ lý tưởng.
Những người dân đang gào thét, khóc lóc, chạy trốn, có người vấp ngã, lăn xuống vùng đất trũng đầy bùn. Nhưng quân Tây Lương chỉ từ từ tiến lên, không chém giết quá nhiều.
Không phải vì quân Tây Lương nhân từ, mà họ cần những người dân này để tấn công pháo đài. Ai không may chặn đường ngựa sẽ bị giẫm nát mà không chút do dự.
Mục tiêu của quân Tây Lương là lùa hết những người dân này, khiến họ hoảng loạn hoàn toàn. Khi nỗi sợ đã bao trùm, họ sẽ mù quáng nghe theo lệnh của quân Tây Lương, như đàn bò, đàn cừu bị dồn đến để lấp đầy các hố và cạm bẫy quanh pháo đài.
Thực ra, số quân Tây Lương tấn công trực diện không nhiều, khoảng cách giữa họ cũng không dày đặc. Ngay cả khi kỵ binh ở bên ngoài liên tục phi ngựa tuần tra, nếu những người dân tị nạn đủ bình tĩnh và gan dạ, họ vẫn có thể chạy thoát qua các kẽ hở giữa quân Tây Lương.
Nhưng khi con người bị cảm xúc mạnh mẽ chi phối, lý trí thường bị đè bẹp.
Hơn nữa, quân Tây Lương liên tục gào thét, bảo rằng nếu chiếm được pháo đài, họ sẽ có đủ thức ăn, có được tự do. Nghe nhiều, những người dân tị nạn bắt đầu mất đi khả năng suy nghĩ, mù quáng tin vào những gì quân Tây Lương nói, quên hẳn những lần họ đã được pháo đài giúp đỡ, từng ăn bát cháo nóng từ đó...
Dòng người như cơn sóng tràn tới, hàng trăm, hàng ngàn người đẩy nhau, chạy tán loạn. Con sóng người ấy đẩy từ sau ra trước, dồn lên pháo đài mà họ đã từng được giúp đỡ.
Đằng sau đám dân tị nạn là quân Tây Lương, kỵ binh và bộ binh đứng thành vòng tròn, liên tục ép những người dân vào pháo đài, hét hò rộn ràng, hành động thuần thục.
Dù pháo đài có một số công sự phòng thủ, nhưng tất nhiên không thể so sánh với thành trì kiên cố, và thậm chí còn không bằng các pháo đài quân sự được xây dựng bởi lính tráng. Tuy bình thường có thể chống đỡ được bọn sơn tặc, thổ phỉ, nhưng dưới cơn lũ người tràn tới như trời long đất lở, những cái hào và bẫy bên ngoài pháo đài chẳng khác nào làm từ giấy.
Từng nhóm lớn những người dân hoảng loạn, mất đi khả năng suy nghĩ, cứ thế đổ xuống các hố và bẫy. Những người đi trước bị ghim chặt vào những cọc nhọn trong hố, máu chưa kịp chảy hết, họ chưa kịp chết hẳn thì những người sau đã giẫm lên thân thể họ, bước qua và đâm vào tường đất của pháo đài, mới nhận ra mà dừng lại trong hoảng loạn...
Những người đàn ông trong pháo đài, dù có chút mạnh mẽ, cũng chỉ còn tái nhợt, tay run lẩy bẩy, không biết phải làm gì. Tất nhiên, trong tình thế như vậy, dù có làm gì đi chăng nữa cũng chẳng còn ích lợi gì.
Tường đất của pháo đài không cao.
Mã Siêu cầm trường thương, ngồi thẳng trên lưng ngựa, nhìn vào pháo đài, tùy ý vung tay ra hiệu. Mã Đại hiểu ý, dẫn quân lính tiến lên. Đối phó với một pháo đài như thế này, Mã Siêu không cần phải ra tay.
Thực ra, ngay cả khi Mã Siêu bỏ ngựa, dẫn theo vệ sĩ lên thang tấn công pháo đài, cũng chỉ là việc của một hai canh giờ. Huống chi, với sự dũng mãnh của Mã Đại, điều này đã là quá đủ. Giờ đây, Mã Siêu chỉ nghĩ đến việc sau khi chiếm được ngựa từ pháo đài, kế hoạch tiến quân tiếp theo sẽ thế nào...
*
Trong khi hàng trăm, hàng ngàn dân tị nạn đang chạy cuồng loạn dọc bờ Mang Thủy, cố gắng giành giật sự sống, thì bên trong thành Trường An, tại phủ đệ của Chung Thiệu, một nhóm cung nữ đang vây quanh ông, giúp ông mặc vào bộ triều phục sang trọng được viền bằng vàng, đeo dải ngọc và ấn tín. Một chiếc gương tròn bằng đồng, đường kính gần hai thước (tương đương hơn năm mươi centimet), được thợ thủ công chế tác cẩn thận, phản chiếu rõ ràng hình ảnh người trong gương, đặt ngay trước mặt Chung Thiệu.
Vài người thiếp thân quỳ dưới chân Chung Thiệu, giúp ông chỉnh sửa trang phục. Một người cẩn thận dùng móc vàng để móc túi da vào thắt lưng ông, một người khác quỳ bên cạnh, nhẹ nhàng vuốt thẳng những nếp nhăn trên triều phục của ông. Một người nữa thì nhận chiếc mũ miện từ khay bạc của nữ tỳ bên cạnh, cẩn thận đội lên đầu Chung Thiệu.
Theo lẽ thường, ở tuổi này, Chung Thiệu đáng ra phải thông suốt mọi điều, buông bỏ tất cả, sống vui thú bên con cháu, hưởng tuổi già. Nhưng ông lại không như vậy. Tuổi càng cao, lòng khao khát quyền lực của ông không những không giảm bớt, mà còn trở nên mãnh liệt hơn.
Sau khi đội mũ xong, Chung Thiệu tự mình điều chỉnh một chút, rồi khẽ gật đầu, vẫy tay cho tất cả những người thiếp thân lui ra.
Trong gương đồng, phản chiếu một gương mặt già nua.
Dù trang phục hoa lệ, nhưng không thể che giấu nét già nua đang hiện rõ trên thân thể ông, một sự già yếu mà không cách nào có thể che lấp.
Chung Thiệu lặng lẽ nhìn mình trong gương, hồi lâu, rồi bỗng nở một nụ cười nhẹ, mang theo chút tự giễu. Cả đời ông thăng trầm trên con đường quan lộ, đến lúc già mới lên được vị trí một người dưới vạn người trên, nhưng không ngờ, dù đến thế này vẫn còn có kẻ muốn cướp đoạt, muốn giành lấy!
Trong gương đồng, tóc ông đã điểm bạc.
Người đàn ông này, giờ đây đã già yếu, không còn sức chịu đựng thêm một cơn sóng gió nào nữa. Nếu bị đánh bật khỏi vị trí, ông sẽ không bao giờ có cơ hội trở lại...
Chung Thiệu nhìn chằm chằm vào gương một lúc lâu, rồi từ từ quay đầu nhìn về phía đông. Từ giờ phút này cho đến khi ông chết, ông phải nắm giữ quyền lực trong tay thật chặt, không cho ai cướp được!
Không ai được phép cướp!
Bạn cần đăng nhập để bình luận