Quỷ Tam Quốc

Chương 980. Kiến Văn của Giả Hủ

Phí Tiềm cùng đại quân di chuyển đến Bình Dương, và Giả Hủ cũng theo quân. Mặc dù Giả Hủ không trực tiếp bày tỏ sự nguyện ý phụng sự, cống hiến tận tụy hay điều gì tương tự, nhưng thực tế thì cũng gần như vậy...
Dù sao việc Giả Hủ tiết lộ về đội quân Phi Hùng cũng xem như là một lá thư ngầm để thể hiện lòng trung thành của ông.
Có vẻ là vậy. Phí Tiềm cũng không ngờ rằng Giả Hủ lại biết về thông tin liên quan đến Phi Hùng quân, và việc thanh kiếm Trung Hưng của Đổng Thái sư có thể đóng một vai trò quan trọng trong đó.
Thì ra về cuối đời, Đổng Trác, do ảnh hưởng của dược phẩm, ngày càng tỉnh táo ít đi. Ông dường như cảm thấy điều gì đó không ổn, nên đã phái đội Phi Hùng quân của mình đến vùng Cô Tàng trước, có lẽ để đảm bảo một con đường lui trong trường hợp khẩn cấp hoặc để cân bằng lực lượng của Mã Đằng và Hàn Toại ở Tây Lương. Nhưng đáng tiếc là sau đó Đổng Trác đã quên mất việc này...
Phí Tiềm lắc đầu, nghĩ rằng thật may khi Đổng Trác đã trở nên hồ đồ như vậy, nếu không mọi chuyện có lẽ đã rất khó nói. Tuy nhiên, việc Giả Hủ biết về điều bí mật này cho thấy rằng vị trí của Giả Hủ trong quân đội của Đổng Trác có lẽ không hề nhỏ như chức vụ của ông ta thể hiện, và có lẽ còn nhiều điều chưa được tiết lộ.
Phi Hùng quân...
Phí Tiềm cười thầm. Nếu đem so sánh Phi Hùng quân với Hổ Báo Kỵ của Tào Tháo, không biết quân đội nào sẽ mạnh hơn?
Trong lịch sử, Hổ Báo Kỵ là một đội quân được nhắc đến với những chiến công vang dội, gần như không có trận chiến nào mà đội quân này không giành chiến thắng. Dù các trận chiến mà Hổ Báo Kỵ tham gia được ghi chép không nhiều, nhưng hễ nơi nào có Hổ Báo Kỵ, đó đều là những trận đánh ác liệt.
Đầu tiên là trong trận Nam Bì năm Kiến An thứ 9, khi Tào Thuần dẫn đầu Hổ Báo Kỵ bao vây Nam Bì và đánh bại Viên Đàm. Trong trận chiến, đầu của Viên Đàm đã bị chém bởi quân Hổ Báo Kỵ dưới sự chỉ huy của Tào Thuần.
Sau đó, trong cuộc chinh phạt Ô Hoàn năm Kiến An thứ 12, Hổ Báo Kỵ lại xuất hiện khi Tào Thuần dẫn quân chém đầu thiền vu Ô Hoàn Đạp Đốn trên chiến trường.
Năm Kiến An thứ 13, Tào Thuần lại dẫn Hổ Báo Kỵ truy kích Lưu Bị ở Trường Bản, thu được hai người con gái của Lưu Bị cùng rất nhiều chiến lợi phẩm. Dù cuối cùng không thể bắt được Lưu Bị, nhưng chiến tích của Hổ Báo Kỵ trong cuộc truy kích đã trở thành một trong những ví dụ kinh điển về tác chiến kỵ binh đường dài trong Tam Quốc diễn nghĩa.
Sau này, Hổ Báo Kỵ còn xuất hiện trong trận Đồng Quan với Mã Siêu và trận Hạ Biện với Trương Phi...
Từ những chiến công của Hổ Báo Kỵ, có thể thấy rằng đây là một đội quân tinh nhuệ, luôn được Tào Tháo sử dụng trong những thời điểm then chốt của trận chiến. Điều này chứng minh khả năng công phá mạnh mẽ của đội quân, cùng với sức cơ động gần như vô đối. Họ thậm chí còn có thể hành quân 300 dặm trong một ngày đêm, và ngay cả quân đội thiện chiến của Mã Siêu ở Tây Lương cũng bị đánh bại bởi Hổ Báo Kỵ. Điều này khiến Hổ Báo Kỵ trở thành một trong những biểu tượng đỉnh cao của kỵ binh trong thời kỳ Tam Quốc.
Tuy nhiên, Phí Tiềm hơi cau mày. Đội Hổ Báo Kỵ xuất hiện vào thời điểm nào nhỉ?
Phí Tiềm quay lại nhìn Giả Hủ đang di chuyển cùng đại quân, và trong đầu chợt lóe lên một suy nghĩ. Liệu đội Hổ Báo Kỵ có liên quan gì đến Phi Hùng quân không?
Có người cho rằng Hổ Báo Kỵ được tuyển chọn từ đội quân kỵ binh Ô Hoàn, nhưng điều này có phần không hợp lý, bởi khi đó giữa Tào Tháo và Ô Hoàn vẫn còn có Viên Thiệu ngăn cách. Ngay cả sau khi Viên Thiệu chết, việc hình thành đội quân này kịp thời trong trận Nam Bì là điều không dễ dàng.
Một giả thuyết khác cho rằng Hổ Báo Kỵ được tuyển chọn từ quân kỵ binh Ký Châu sau khi Tào Tháo bình định vùng này. Nhưng điều này cũng khó xảy ra, vì nếu Hổ Báo Kỵ được tuyển từ sĩ tộc Ký Châu, thì chẳng có lý do gì Viên Thiệu lại không tự sử dụng họ mà để lại cho Tào Tháo.
Chắc chắn một điều rằng vào thời điểm trận Uyển Thành, Tào Tháo chưa có đội quân Hổ Báo Kỵ, thậm chí cả trong các cuộc đối đầu với Lã Bố hay Viên Thiệu cũng chưa thấy đội quân này xuất hiện. Quan trọng nhất là vào thời điểm đó, Tào Tháo không có đủ nguồn lực để duy trì một đội kỵ binh mạnh mẽ.
Cần phải nhớ rằng để xây dựng một đội kỵ binh, không chỉ binh lính mà cả chiến mã cũng rất quan trọng. Nếu không có nguồn cung cấp chiến mã, làm sao Tào Tháo có thể xây dựng được đội quân kỵ binh?
Vậy nên...
Nếu so sánh tình hình hiện tại với dự đoán của Phí Tiềm, có thể thấy rằng việc Giả Hủ đưa ra thông tin về Phi Hùng quân có thể là cách để ông ta tiến lên trên bậc thang quyền lực, và đột nhiên mọi thứ trở nên hợp lý hơn.
Tất nhiên, đó cũng chỉ là suy đoán của Phí Tiềm. Ở thời điểm này, không thể nào viết thư cho Tào Tháo để hỏi: "Sư huynh à, quân Hổ Báo Kỵ của huynh đã được lập chưa?"
Phí Tiềm lại liếc nhìn Giả Hủ, người từng xuất hiện tại Bình Dương dưới cái tên Tằng Hòa. Không ngờ ông ta lại mang đến cho mình một bất ngờ như vậy. Điều quan trọng hơn cả là trí tuệ của Giả Hủ chắc chắn sẽ còn nhiều hữu ích trong tương lai...
Được rồi, tự mình cứ âm thầm vui vẻ thôi.
Ở trung quân, Giả Hủ cúi đầu cưỡi một con ngựa đen, chậm rãi theo sau đại quân.
Hiện tại, Phi Hùng quân không hoàn toàn nằm dưới sự kiểm soát của Giả Hủ.
Nhưng tại vùng Vũ Uy, Cô Tàng vẫn còn một người, đó là quản gia lớn của Đổng Trác - Lý Nho. Vậy nên, khi Giả Hủ đưa thanh Trung Hưng kiếm của Phí Tiềm đến cho Lý Nho, ông ta sẽ lập tức hiểu ý nghĩa của nó.
Việc mượn thanh Trung Hưng kiếm của Phí Tiềm, ngoài mục đích giao tiếp với Lý Nho, còn là cách để Giả Hủ thông báo tình hình hiện tại và sự thay đổi đang diễn ra. Đồng thời, Giả Hủ cũng muốn báo cho Lý Nho biết rằng ông ta hiện đã theo một thế lực có triển vọng.
Quan trọng hơn cả, Giả Hủ nhận thấy rằng Phí Tiềm đã tự xây dựng một đội quân giống như Phi Hùng quân, mặc dù có một số khác biệt, nhưng về cơ bản, sự tương đồng đã lên tới bảy, tám phần!
Phi Hùng quân, đúng như tên gọi, là một đội quân trọng giáp, có thể tác chiến cả trên ngựa và dưới đất. Họ mạnh mẽ, cơ động, và có thể tấn công bất cứ nơi đâu. Nhưng hiện tại...
Giả Hủ lắc đầu, thở dài nhẹ nhàng.
Phí Tiềm, người này, đúng là một quái vật, biết quá nhiều thứ!
Nhìn đội quân đang tiến bước bên cạnh, nhìn những chiếc xe chở nặng giáp sắt và mã giáp, rồi nhìn những binh lính trọng giáp đi cùng Phí Tiềm, và những chiếc xe nặng chứa đầy cung nỏ mạnh mẽ, Giả Hủ nhận ra rằng với một đội quân chưa tới hai ngàn người này, sức chiến đấu của họ thậm chí có thể sánh ngang với bốn, năm ngàn quân Tây Lương thông thường, chưa kể so với
những đội quân dân binh.
Ngay lập tức, Giả Hủ hiểu ra rằng Phí Tiềm khi tấn công Quan Trung đã không dùng hết sức mạnh của mình. Vị tân Chinh Tây Tướng Quân này còn che giấu bao nhiêu con bài nữa?
Vì vậy, việc Giả Hủ tiết lộ về Phi Hùng quân vào lúc này có thể đổi lại một số lợi ích. Nếu ông ta giữ bí mật quá lâu, giá trị của thông tin có thể sẽ giảm sút...
Giả Hủ cũng rất tò mò về tình hình hiện tại của Bình Dương. Không biết sau thời gian qua, Bình Dương đã thay đổi như thế nào, và tiềm lực quân sự của Phí Tiềm đã đạt tới mức độ nào?
Trên đường đi, đoàn quân khởi hành lúc mặt trời mọc và dừng chân khi mặt trời lặn. Càng tiến gần đến Bình Dương, sự phồn thịnh càng rõ rệt, và càng khiến người ta cảm nhận được rằng sự thịnh vượng này không hề dễ dàng có được.
Chính sách thuế của nhà Hán thực ra chưa bao giờ quá nặng. Tệ nhất cũng chỉ là "mười phần trăm thuế", có khi còn có chính sách "mười lăm phần trăm thuế", thậm chí đã từng có thời điểm không thu thuế.
Hiện tại, vùng Bình Dương thực hiện mức thuế "hai mươi phần trăm", mặc dù cao hơn so với thời kỳ Văn Cảnh chi trị, nhưng đối với nông dân thì đây đã là một chính sách nhân từ khá tốt rồi.
Thời kỳ Hán Linh Đế, chính sách thuế cũng duy trì ở mức mười đến mười lăm phần trăm. Đối với nông dân, mức này không khác gì thời kỳ đầu nhà Hán. Nhưng cùng với chính sách thuế này, nhà Hán đã gặp phải những vấn đề lớn, khi mà nhiều nông dân không thể sống nổi, từ đó tạo nền tảng cho cuộc khởi nghĩa Hoàng Cân. Nguyên nhân cơ bản nhất là do tình trạng thâu tóm đất đai.
Tình trạng này xảy ra ở hầu hết các triều đại, và thường không thể đảo ngược.
Thời kỳ Tân Vương Mãng, đã có một nỗ lực cải cách đất đai, nhưng cuối cùng cũng không thành công. Thực tế, mặc dù đất đai có thể được mua bán tư nhân, nhưng về bản chất, nó vẫn thuộc sở hữu của quốc gia, hay chính xác hơn là của hoàng đế. Một lệnh tịch thu tài sản có thể xảy ra bất cứ lúc nào.
Việc thâu tóm đất đai khiến nhiều nông dân tự canh trở thành tá điền, ngoài việc phải nộp thuế cho nhà nước, họ còn phải trả tiền thuê đất. Thêm vào đó là các khoản điều động tạm thời và phân bổ ngẫu nhiên, khiến nhiều nông dân sống trong khó khăn và thậm chí trở thành dân lưu vong.
Vậy nhà Hán có biết rằng có rất nhiều dân lưu vong không?
Chắc chắn là biết. Ban đầu, nhà Hán đã thực hiện một số biện pháp cứu trợ, nhưng sau đó các chính sách này không thể tiếp tục được vì quốc khố đã trống rỗng.
Nguyên nhân của việc quốc khố trống rỗng không phải do sự xa xỉ của Hán Linh Đế, mà do cuộc nổi loạn liên tục của người Khương ở Lương Châu, dẫn đến chi phí quân sự khổng lồ.
Nạn nổi loạn của người Khương lại liên quan đến thái độ của các quan lại nhà Hán đối với Lương Châu. Do coi nhẹ khu vực này, nên tình trạng tham nhũng ở Lương Châu trở nên trầm trọng, và các cuộc nổi loạn xảy ra liên tiếp, tạo ra một vòng luẩn quẩn.
Đặc biệt trong bối cảnh Hồng Nông đang suy tàn, và Quan Trung cũng sắp rơi vào tình trạng tương tự, sự thịnh vượng ngược dòng của khu vực xung quanh Bình Dương càng trở nên quý giá hơn bao giờ hết.
Không chỉ trong lĩnh vực nông nghiệp, ngay cả trong thương mại, Giả Hủ cũng cảm nhận được sức sống của Bình Dương.
Càng đến gần Bình Dương, người đi lại trên đường càng đông đúc, thậm chí còn có các đoàn thương buôn nối tiếp nhau, kéo theo những chiếc xe quá tải nặng nề. Khi nhìn thấy quân đội của Phí Tiềm, họ vội vàng nép sang hai bên đường, để lại một lối đi ở giữa. Một số người còn mang theo rượu thịt và cúi lạy dâng lên quân đội, biểu hiện lòng kính trọng.
Giả Hủ lặng lẽ quan sát, và ông bất ngờ nhận ra trong số các thương nhân không chỉ có người Hán mà còn có những người Hung Nô đội mũ lông, hoặc những người Khương quấn khăn đầu. Điều này khác hẳn với lần trước khi ông đến Bình Dương, chỉ có một đoàn thương nhân họ Thôi của người Hán.
Giả Hủ suy nghĩ một lúc rồi bất chợt nảy ra một ý tưởng, ông lập tức thúc ngựa lên phía trước.
Nhưng vấn đề là, con ngựa của Giả Hủ vốn chỉ là một con ngựa đen yếu, tuy đi theo đoàn quân không vấn đề gì nhưng lại rất chậm chạp. Giả Hủ không phát hiện ra điều này vì trước giờ chỉ đi theo đoàn, nhưng khi định thúc ngựa lên phía trước để quan sát kỹ hơn, con ngựa lại không chịu di chuyển.
Giả Hủ cố giật dây cương, nhưng con ngựa không có động tĩnh gì.
Có chuyện gì vậy? Giả Hủ lại thúc mạnh vài lần, nhưng con ngựa vẫn không nhúc nhích...
Khi Giả Hủ cúi xuống để xem xét con ngựa, thì đột nhiên con ngựa bứt phá chạy về phía trước!
May mắn là phía trước không có nhiều binh sĩ, nếu không thì chắc chắn Giả Hủ sẽ gặp rắc rối lớn. Sau khi nhanh chóng ghìm cương ngựa lại, Giả Hủ thở phào nhẹ nhõm. Trong quân đội, kỷ luật nghiêm ngặt, nếu gây ra hỗn loạn, hình phạt sẽ rất nặng.
Nhưng sự cố này đã khiến đoàn quân bị ảnh hưởng ít nhiều, ngay lập tức có binh sĩ tuần tra đến kiểm tra tình hình.
Giả Hủ mồ hôi nhễ nhại vì lo sợ, ông vội vàng giải thích rằng ngựa bị hoảng loạn và từ chối cưỡi con ngựa này thêm lần nữa.
Khi quay đầu nhìn lại đoàn thương nhân cúi lạy bên đường, Giả Hủ chú ý đến một người Khương đang quấn khăn đen và đeo sừng dê trên vai. Nhìn trang phục và cách ăn mặc, xuất thân từ Tây Lương, Giả Hủ lập tức nhận ra rằng người này thuộc nhóm Khương Tiên Linh!
Tiên Linh Khương hiện đang ở Long Hữu, nhưng giờ lại có mặt tại Bình Dương để buôn bán. Điều này cho thấy hoạt động thương mại tại Bình Dương đã phát triển đến mức nào?
Cần nhớ rằng triều Hán không ghét bỏ thương nhân như một số triều đại phong kiến sau này, nhưng cũng không thực sự coi trọng họ.
Do tính lưu động cao của thương nhân, họ không phù hợp với quan niệm chủ đạo của thời kỳ đó. Từ thời Hán Vũ Đế trở đi, chính sách kiềm chế thương nhân đã được thực hiện, và các triều đại sau này cũng tiếp tục thực hiện chính sách này, bởi vì thương nhân không dễ quản lý như nông dân, và họ sở hữu lượng tài sản lớn, dễ gây ra những vấn đề khác.
Nhưng chính việc kiềm chế thương nhân của các hoàng đế nhà Hán đã làm gia tăng sức mạnh của các thế lực hào cường ở địa phương, vì nhu cầu trao đổi hàng hóa không thể bị kiềm chế. Các điều kiện hà khắc đối với thương nhân bình dân đã khiến lợi nhuận rơi vào túi của các hào cường địa phương, đồng thời thúc đẩy sự trỗi dậy của họ.
Tuy nhiên, giờ đây, trước mắt Giả Hủ, không chỉ có các thương nhân người Hán mà còn có các đoàn thương buôn của người Khương và Hung Nô. Điều này không chỉ có nghĩa là Phí Tiềm đã mở rộng thương mại đến Long Tây, thậm chí có thể đến Tây Vực, mà còn cho thấy Phí Tiềm đã phá vỡ sự độc quyền của đoàn thương nhân họ Thôi trong việc kiểm soát thương mại tại Bình Dương.
Phí Tiềm, đúng là một nhân vật đặc biệt!
Không rõ đây là kết quả của kế hoạch chủ động của Phí Tiềm hay chỉ là sự phát triển tự nhiên...
Bạn cần đăng nhập để bình luận