Quỷ Tam Quốc

Chương 1573. Hán Quảng

Trí tuệ là điểm khác biệt rõ rệt nhất giữa con người và các loài động vật khác. Có những người không bao giờ chịu suy nghĩ, mặc dù đã nhìn thấy và nghe thấy mọi thứ, nhưng vẫn không thể nhanh chóng thích ứng với những thay đổi mới.
Ví dụ như những thay đổi do tướng quân Trấn Tây mang lại…
Năm mới sắp đến, dù chưa đến thời điểm chính thức, nhưng nhiều người đã bắt đầu chuẩn bị. Ngay cả những người dân thường nghèo khó cũng đang cố gắng chặt củi, đổi lấy chút tiền để mua vài xấp vải mới hoặc vài lon gạo trắng, bột mì. Còn với những gia tộc lớn ở Thục, khi thấy chiến sự đã dần lắng xuống, họ lại có thể trở về với những ngày tháng yêu thích của mình, tâm trạng cũng trở nên hưng phấn hơn bao giờ hết.
Do đó, trong và ngoài thành Đô, không khí ngày càng tràn ngập niềm vui, như thể xua tan phần nào cái lạnh giá của thời tiết.
Khi Phí Tiềm đưa Lưu Bị ra khỏi Thanh Dương Tự, ở con đường phía đông thành Đô, lớp tuyết đã sớm được dọn sạch, đẩy sang một bên và chất đống dưới những bức tường gạch. Ở quán rượu Lâm Tiên gần đó, cả tầng trên và tầng dưới đều thắp lửa, các bức rèm dày được kéo lại để chắn gió, cộng với mùi rượu thịt lan tỏa khắp nơi, khiến mọi người bước vào cảm thấy như mùa xuân đã đến sớm.
Tầng dưới quán không chỉ bán trà mà còn bán rượu, nhiều người dân lao động với thời gian rảnh rỗi trong tháng Chạp, nhưng không có nhiều tiền bạc, cũng tụ tập ở đây, vừa sưởi ấm vừa uống trà đắng và rượu chua, tán gẫu đủ thứ chuyện. Đa phần câu chuyện xoay quanh tướng quân Trấn Tây Phí Tiềm, người mới đến cai quản đất Thục.
Trong câu chuyện của những người này, tướng quân Trấn Tây dần trở nên thần thánh hóa. Dù phần lớn họ chưa từng trải qua trận chiến tại Quỳ huyện, thậm chí nhiều thông tin đã bị thêu dệt qua nhiều lần truyền miệng, nhưng điều đó không ngăn cản được họ phát huy trí tưởng tượng vô hạn, mô tả tướng quân Trấn Tây cùng thuộc hạ như những người có sức mạnh siêu nhiên: vẫy tay là mây kéo tới, phất tay là mưa rơi, dậm chân một cái là cổng thành đổ sập…
“Mấy người nói vậy, sau này khỏi cần tìm Long Vương cầu mưa nữa nhỉ?” Một gã đàn ông thắc mắc, dường như tìm ra được một ý tưởng mới, “Tướng quân Trấn Tây có thần thông như vậy, có thể thúc đẩy mây mưa, chẳng trách thiên hạ nói đất Quan Trung nhờ ông ta mà mùa màng tốt tươi, sản lượng tăng lên.”
“Đúng thế, đúng thế! Nếu tướng quân Trấn Tây có thể ban phước cho ruộng nhà tôi... à không, tôi muốn nói là ruộng đất Thục cũng nhận được thần thông như vậy, chẳng phải sẽ…”
“Nghĩ gì thế! Lợi lộc cũng chưa đến lượt ngươi đâu, mấy nhà đại hộ sẽ hưởng trước rồi!”
“Thần thông của tướng quân Trấn Tây nhiều như vậy, mấy nhà đại hộ cũng không chịu nổi đâu. Dù sao thì cũng phải rơi rớt chút ít, chúng ta được hưởng chút ít là đủ rồi…”
“Cũng đúng... Nhưng mà thần thông thì chưa thấy đâu, quy củ thì đã thấy rồi... Này, Đại Khoan, việc lao dịch của ngươi đã xong chưa? Có sướng không?”
“Sướng thì sướng rồi!” Đại Khoan cười gượng, mặt đỏ lên nhưng vẫn cứng cỏi không chịu thua, “Lão tử không phục!”
“Ha ha ha...”
Góc quán rượu tràn ngập tiếng cười nói vui vẻ.
“Đại Khoan này, lần sau đừng có đi tiểu bậy nữa, cẩn thận tướng quân Trấn Tây không phạt ngươi quét đường mà phạt nặng hơn đấy, ha ha ha...”
“Đúng vậy, Đại Khoan, ngươi gan lớn thật, ít ra cũng phải tìm một con hẻm vắng chứ. Lại đi tiểu trước mặt bọn tuần tra của Trấn Tây, không tự tìm rắc rối thì là gì?”
Đại Khoan dù mặt đỏ bừng vì xấu hổ nhưng vẫn cứng đầu: “Lão tử cứ tiểu đấy! Thì sao nào! Lão tử không phục! Tướng quân Trấn Tây quản trời, quản đất, giờ lại quản cả chuyện đi vệ sinh à? Người ta không lẽ không được tiểu tiện đại tiện sao? Vậy mà còn phạt lão tử…”
“Đại Khoan, nếu ngươi không phục, thì đến gặp tướng quân Trấn Tây mà nói lý lẽ đi! Ra ngoài rẽ trái, rồi đi về phía Bắc, không ai cản ngươi đâu!”
“Hừ, lão tử dễ tính, không thèm chấp nhặt…”
“Ha ha ha…”
Lai Mẫn dưới sự hướng dẫn của người hầu, chậm rãi bước lên tầng lầu, nghe được những câu chuyện ồn ào và tiếng cười vang từ góc phòng cũng không nhịn được mà mỉm cười. Sau đó, ông lên tầng hai.
Tầng hai trang trí sang trọng hơn nhiều, không chỉ có bình phong ngăn cách, còn có những tấm rèm buông xuống, góc phòng có lư hương tỏa ra những làn khói xanh, tạo nên không gian thanh tịnh và tao nhã.
“Cung nghênh Kính Đạt huynh, xin mời vào!” Ngay khi Lai Mẫn vừa lên đến nơi, Ngô Ý đã vội vàng bước ra khỏi bình phong đón tiếp.
“Ai da, tiểu đệ đến muộn, Ngô huynh thứ lỗi, thứ lỗi…” Lai Mẫn chắp tay cười tươi nói.
Ngô Ý cười lớn, tiến lên nắm lấy tay Lai Mẫn, thân mật đáp: “Kính Đạt huynh cần gì phải khách sáo! Chúng ta quen biết nhiều năm, bận bịu công việc, hiếm khi có dịp gặp nhau... Hôm nay nghe nói quán Lâm Tiên có món ăn ngon mới, uống rượu một mình thì chẳng vui, may mắn được Kính Đạt huynh không chê tiểu đệ thô tục, thật là may mắn ba đời!”
Lai Mẫn cười đáp lại, hai người tiếp tục khách sáo thêm một lúc rồi mới cùng nhau ngồi xuống.
Ngô Ý thì khỏi phải nói. Còn Lai Mẫn, cũng như Ngô Ý, là kẻ "cùng trời cuối đất", đồng bệnh tương lân.
Sau khi dùng bữa một hồi, hai người bắt đầu đi vào chủ đề chính.
Bình phong xung quanh đều là người tâm phúc bảo vệ, trừ khi có ai đó dán tai lên cửa sổ tầng hai, hoặc sát sàn gác, còn nếu không thì trong không khí ồn ào của quán rượu, kẻ muốn nghe trộm cũng khó lòng mà nghe được.
“Ngày mai tướng quân Trấn Tây...” Lai Mẫn tiến sát hơn một chút, hạ giọng, “triệu tập mọi người để bàn việc, không biết Ngô huynh có biết là vì chuyện gì không?”
Ngô Ý đặt chén rượu xuống, cũng đáp nhẹ nhàng: “Năm mới sắp đến, chắc là để xem xét tình hình công việc trong năm qua, rồi bàn về kế hoạch cho năm tới…”
Lai Mẫn suy nghĩ một lúc, rồi hỏi: “Ngô huynh có gặp được Lưu Sứ quân gần đây không?”
Ngô Ý lắc đầu: “Gần đây Huyền Đức luôn đi theo bên cạnh tướng quân Trấn Tây, ta cũng không gặp được.”
Lai Mẫn nhìn Ngô Ý một chút, rồi cúi đầu gõ nhẹ đũa vào đệm, tiếng gõ phát ra những âm thanh nhỏ nhưng rõ ràng. “Vậy thì... Lưu Sứ quân...”
Quán Lâm Tiên là một trong những quán rượu lớn nhất thành Đô, thêm nữa, dù hiện tại Ngô Ý và Lai Mẫn không giữ chức vụ chính thức, họ cũng không phải là dân thường, nên đồ dùng trong bữa ăn cũng khá tinh tế. Ví dụ như đôi đũa mà họ dùng được làm bằng ngà voi khảm bạc, đệm đũa bằng đồng xanh, trên đệm còn khắc những họa tiết hoa văn tinh xảo.
“Huyền Đức luôn trọng tình nghĩa, chắc không đến mức như vậy đâu…” Ngô Ý nhìn thoáng qua Lai Mẫn, cũng hiểu ý của ông ta, nhưng lời phủ nhận dường như thiếu phần tự tin. “Có lẽ sẽ không như vậy…”
Lai Mẫn đặt đũa xuống, mỉm cười, không nói gì thêm.
Trong chốc lát, cả hai đều rơi vào sự im lặng ngượng ngùng.
Âm thanh ồn ào từ tầng dưới len lỏi qua sàn gác, vài từ lẻ tẻ như “Trấn Tây”, “quy củ”, “bạc tiền” vang lên, xen vào khoảng không gian im lặng của Ngô Ý và Lai Mẫn.
“Pháp luật của Trấn Tây…” Ngô Ý mở lời phá tan sự tĩnh lặng, “Kính Đạt huynh nghĩ thế nào?”
Lai Mẫn cười, nâng chén mời một cái, rồi nói: “Ta chỉ là người không có chức vụ, cũng không có tiếng nói... chuyện này, ha ha, cứ để những người quyền cao chức trọng bàn bạc là được…”
Ngô Ý cũng nâng chén, gật đầu cười: “Phải… Đúng là mùa đông qua đi, xuân đến, gieo trồng rồi thu hoạch... Chúng ta hãy cùng chúc mừng cho pháp luật mới của Trấn Tây được thi hành tốt.”
Hai người nhìn nhau cười lớn, rồi cùng nâng chén uống cạn.
Chiến tranh đến thời kỳ Hán đã khác xa với những cuộc đấu tranh man rợ, dùng xương voi ma mút làm vũ khí. Để giành được thắng lợi lớn, các yếu tố quyết định không chỉ diễn ra trên chiến trường, mà còn nằm ngoài chiến trận.
Khi xã hội ngày càng phát triển, những yếu tố ngoài chiến trường ngày càng quan trọng. Sự chênh lệch về trang bị, cập nhật kỹ thuật mới... sẽ mở rộng khoảng cách giữa hai bên, buộc đối phương phải tiêu hao nhiều tài nguyên hơn, cuối cùng có thể thất bại vì không chịu nổi chi phí.
Sức mạnh hiện tại của Phí Tiềm không chỉ nằm ở quân đội, mà còn đến từ nền tảng kinh tế được xây dựng ở miền Bắc và Quan Trung. Những sức mạnh này, kết hợp với nhau, tạo ra hiệu quả lớn hơn nhiều so với phép cộng thông thường. Ví dụ, con đường từ Quan Trung đến Hán Trung vốn gồ ghề khó đi, Tử Ngọ cốc nhỏ hẹp và gian nan. Nhưng sau những lần khai phá, con đường vốn chỉ có người đi qua giờ đã trở thành lối nhỏ cho ngựa, và nếu tiếp tục khai phá, giao thông sẽ càng thuận tiện hơn…
Đường từ Hán Trung đến Thục cũng tương tự.
Thuốc súng có thể không phải là vũ khí vạn năng trên chiến trường, nhưng lại rất hữu ích trong việc phá núi, giảm bớt khó khăn và đẩy nhanh tiến độ công trình. Đồng thời, nhờ sự phát triển của ngành chăn nuôi ở miền Bắc, nhiều trâu bò có thể được sử dụng vào các công việc thô nặng như vận chuyển đất đá. Do đó, những người lao động có thể tập trung vào những công việc tinh tế hơn, không cần phải tiêu hao nhiều sức lực vào các công việc nặng nhọc, vốn là điều tiêu tốn sức lực nhất.
Có thể trong nhiều khía cạnh, Phí Tiềm chưa thể sánh với những chiến lược gia hay tướng lĩnh xuất sắc, nhưng về khả năng quản lý tổng thể và phân bổ tài nguyên, ông vượt trội hơn tất cả nhờ vào kiến thức và kinh nghiệm từ thời hiện đại.
Giống như việc Lưu Yên và Lưu Chương kiểm soát Thục Hán, nhưng chỉ biết tích lũy của cải như những kẻ keo kiệt, cuối cùng bị Lưu Bị tiêu hết toàn bộ tài sản tích lũy. Nhiều chư hầu không biết cách tận dụng tài nguyên, cũng không biết làm thế nào để tối đa hóa lợi ích.
Thục Hán là vùng đất giàu tài nguyên, và muốn làm giàu, trước hết phải xây dựng hệ thống giao thông. Con đường ở đây không chỉ là những tuyến quan đạo cũ, mà còn là những con đường mới chưa từng được khai phá, dẫn đến các điểm tài nguyên mới.
Ví dụ như một nơi tên gọi "Nhất Chi Hoa"…
Ở thời Hán, không có tên gọi "Phan Chi Hoa", mà nơi này được gọi là Đại Tạc.
Khi trở về phủ, bước vào chính đường, Phí Tiềm nhìn thấy sa bàn vừa được hoàn thiện. Ông đặt tay lên sa bàn, quan sát vị trí của Đại Tạc.
Khu vực Tứ Xuyên và Vân Nam có rất nhiều núi non, trong thời gian dài, nơi đây hình thành nhiều bộ tộc. Theo thời gian, có những bộ tộc mới ra đời, và cũng có những bộ tộc bị tiêu diệt. Đại Tạc từng là nơi cư ngụ của tộc người Tạc Di, từng có thời kỳ hưng thịnh, được cho là có tới 1,3 triệu hộ dân và hơn 6 triệu nhân khẩu. Tuy nhiên, đến thời Hán Vũ Đế, triều đình đã để mắt đến khu vực này và vào năm Nguyên Đỉnh thứ sáu đã bắt đầu chinh phục miền tây nam của Đại Hán, tiêu diệt hy vọng phát triển của tộc người này.
Đến nay, tộc Tạc đã bị phân hóa thành nhiều nhóm nhỏ như Bạch Lang, Bàn Mộc, Lâu Bạc, Thanh Y, Tam Tương, Mạo Ngưu... Một số người vẫn ở lại quê hương, trong khi số khác chạy trốn và hòa nhập với tộc Khương, không còn mạnh mẽ như xưa.
Chính vì vậy, mối quan hệ giữa người Tạc và người Hán vẫn luôn căng thẳng. Lưu Yên và Lưu Chương vốn không đủ tài năng nên chỉ cần người Tạc không gây rắc rối thì họ cũng làm ngơ.
Nhưng hiện tại, Phí Tiềm muốn khai thác khoáng sản ở đây, nên buộc phải giao tiếp với người Tạc.
Chiêu hàng?
Theo lý thuyết, mối hận thù từ thời Hán Vũ Đế đến nay đã gần như phai nhạt, hơn 200 năm đã trôi qua, qua bao nhiêu thế hệ, giống như người Hung Nô giờ đây cũng phải cúi đầu phục tùng.
Phí Tiềm đi quanh sa bàn, ngọn lửa trong phòng chiếu sáng sa bàn, tạo nên những vệt sáng tối trên địa hình.
Tuy nhiên, môi trường sống của người Tạc và Hung Nô không giống nhau. Người sống trên thảo nguyên luôn phải đối mặt với sự thay đổi liên tục, trong khi những người sống trong núi thường có tầm nhìn hạn hẹp và bị ràng buộc bởi những suy nghĩ cũ kỹ. Nếu người Tạc vẫn còn giữ mối hận thù từ hàng trăm năm trước, cũng không có gì lạ.
Do đó, cần phải chuẩn bị sẵn sàng cho mọi tình huống. Dù thế nào, vùng Phan Chi Hoa với trữ lượng sắt khổng lồ…
Nghĩ đến thôi cũng khiến Phí Tiềm chảy nước miếng. Hơn nữa, còn có các khoáng sản phụ, than đá, đá granite... Chỉ cần giành được vùng đất này, có thể ngay lập tức xây dựng lò cao!
Dù thế nào, đây là mục tiêu không thể bỏ qua!
**
Bạn cần đăng nhập để bình luận