Quỷ Tam Quốc

Chương 1544. -

Mặt trời đã xế chiều, thêm một hai canh giờ nữa thì trời sẽ tối hẳn. Đã vào tháng mười một, gió lạnh thổi qua khiến ngày càng ngắn đi. Tại khu vực tây bắc An Hán, cách đó khoảng ba bốn mươi dặm có một khe núi gọi là Lý Gia Câu Tử, trong khe núi này có một thôn trang tên là Lý Gia Trại. Xung quanh Lý Gia Trại, những nông dân nam nữ tụm năm tụm ba, đang bận rộn hoàn thành công việc đồng áng cuối cùng của mùa vụ.
Sắp vào mùa đông, những việc cần dọn dẹp đều phải được xử lý, ruộng đất cũng cần cày lật một lần để khi mùa xuân tới, không phải tốn nhiều sức mà cày xới lại. Đất trồng trọt đã sử dụng cả năm, cũng cần phải đốt rơm rạ, cỏ dại để làm phân bón, bổ sung dinh dưỡng cho đất để mùa sau có thể thu hoạch tốt.
Thế gian dù có loạn lạc thế nào, con người vẫn cần phải ăn. Ở vùng đất Thục Xuyên cũng vậy, dù chiến sự giữa ba phe diễn ra loạn lạc, lương thực vẫn phải gieo trồng bởi con người vẫn cần ăn để sống. Năm nay, người dân Lý Gia Trại đã lo lắng vì tưởng rằng một trận đại chiến sẽ ập đến, nếu vậy thì coi như một năm công lao cày cấy sẽ đổ sông đổ bể. Mọi người trong thôn đã bỏ chạy, không còn tâm trí nào mà chăm sóc ruộng đồng. Nhưng cuối cùng, chiến tranh lại không đánh đến An Hán, nên vụ mùa năm nay đã giảm mất khoảng ba phần so với mọi năm.
Sản lượng giảm đi ba phần, cộng với việc luôn nghe đồn có chiến tranh sắp đến, nhưng suốt thời gian này không có lấy một bóng dáng binh sĩ hay chiến sự nào chạm đến Lý Gia Trại. Dân làng dần bớt lo âu, không còn căng thẳng như trước nữa.
Nơi thâm sơn cùng cốc vốn đã rất cô lập, đi mười dặm cũng chưa gặp được một ngôi làng khác, vì thế người dân ở đây vừa lo sợ mối nguy từ bên ngoài, vừa không mấy khi nhận thức rõ ràng về nó. Trong khi làm việc trên đồng, họ bàn tán với nhau, nhưng chẳng ai thực sự hình dung được chiến tranh sẽ ra sao. Đối với họ, Hoàng đế nhà Hán chắc hẳn là người cầm cuốc bằng vàng đi cày.
Dù vậy, người đứng đầu Lý Gia Trại vẫn hiểu biết hơn so với nông dân bình thường. Ông đã nhanh chóng cho sửa chữa những ngọn tháp canh và tường thành đất đã hư hại, đồng thời yêu cầu rèn giũa vũ khí, tiến hành vài đợt huấn luyện cho thanh niên trong làng. Những hoạt động này cũng đã giúp người dân bớt lo âu phần nào.
Hệ thống phòng thủ của ngôi làng không khác gì trò chơi "World of Warcraft". Nếu có biến, tiếng cồng cảnh báo sẽ vang lên, người dân đang làm việc ngoài đồng sẽ nhanh chóng chạy về làng, rồi dựa vào bức tường đất cao hai người để phòng thủ. Trên các tháp canh, củi khô cũng đã được chất đống, chỉ cần có đội quân lớn tiến đến, làng sẽ đốt khói sói (biểu tượng cảnh báo) để kêu gọi sự hỗ trợ từ các làng khác hoặc từ thành An Hán.
Dù sản lượng vụ mùa năm nay đã giảm, nhưng thuế vụ thì vẫn phải nộp đầy đủ. Người trong thành An Hán nhận thuế vụ của Lý Gia Trại còn hứa rằng nếu làng gặp nguy hiểm, sẽ điều quân đến cứu trợ. Có được sự đảm bảo này, cộng thêm thời gian qua mọi chuyện đều bình an, người dân trong làng cũng không còn quá lo lắng, ngay cả những người gác tháp canh cũng bắt đầu buông lỏng cảnh giác.
Khi trời sắp tối, những người gác tháp, hầu hết là những người già yếu, vì thanh niên trong làng đều ra đồng làm việc. Người già yếu thì không thể ra đồng, nên ở lại làm nhiệm vụ gác. Họ bắt đầu buôn chuyện, bớt cẩn trọng so với buổi sáng.
Lời lẽ của họ từ chuyện gia đình dần dần trượt sang chuyện nam nữ. Trong nhóm người gác, có một người đàn ông trung niên chưa lấy vợ vì nhà quá nghèo. Gần đây, trong làng có một gia đình gặp nạn, cha mẹ qua đời, con nhỏ bị cảm lạnh và chết trong rừng khi trốn tránh lao dịch. Gia đình chỉ còn lại một góa phụ trẻ đáng thương.
Theo lẽ thường, khi một gia đình không còn nam nhân, đất đai sẽ bị thu hồi về công quỹ của dòng họ. Người phụ nữ tuy có nhan sắc, nhưng vì sợ rằng cô có mệnh khắc chồng khắc con, nên chẳng ai dám lấy. Cuối cùng, người đàn ông trung niên đã quyết định cưới cô làm vợ, và câu chuyện này nhanh chóng trở thành chủ đề bàn tán sôi nổi trong làng. Ngay cả khi đối diện với người đàn ông đó, mọi người vẫn không ngừng đùa giỡn.
Không phải ai cũng có ý xấu, chỉ là ở nơi làng quê tẻ nhạt, những chuyện vặt vãnh như thế này trở thành đề tài chính. Một số người còn tỏ ra quan tâm đến chuyện trong phòng của anh ta, thậm chí còn hào hứng đề nghị giúp đỡ.
Người đàn ông trung niên không lấy làm phiền, chỉ nhai một cọng cỏ và cười, khi mọi người trêu chọc nhiều quá, anh mới từ tốn nói: “Lúc trước cô ấy bị bỏ rơi, không ai trong các người dám nhận, giờ lão tử đã cứu một mạng người, thì các người lại cứ đùa cợt. Đừng lo, đồ nghề của ta vẫn dùng tốt, chẳng cần các người bận tâm! Mà nói thật, các người đây, đến vợ mình còn không lo nổi, còn rảnh rỗi nghĩ chuyện khác à?”
Có lẽ câu nói đã chạm đến nỗi đau của một vài người, khiến họ giận dữ kéo người đàn ông ra để thi thố xem ai hơn. Họ còn thách nhau đứng ở mép tháp canh để xem ai tiểu xa hơn.
Người đàn ông trung niên, dù bị trêu chọc nhưng cũng đùa giỡn, kéo người ra thi đấu. Nhưng khi anh ta vừa bước đến mép tháp canh và chuẩn bị kéo áo lên, thì đột nhiên anh ta đứng sững lại, không thể hành động được nữa. Cảnh tượng này khiến những người xung quanh cười phá lên, ngã lăn ra đất.
Người đàn ông trung niên không để ý đến những lời chế giễu, chỉ để lộ hàm răng vàng ố, khàn giọng nói: “Cái… cái gì thế kia?”
Ban đầu, mọi người nghĩ anh ta viện cớ để thoát khỏi trò đùa, nhưng khi họ nhìn theo hướng tay anh chỉ, họ thấy ở xa, trên con đường núi, có một lá cờ ba màu đang bay phấp phới dưới ánh chiều tà, rực rỡ đến chói mắt.
Chiến tranh, chiến tranh đến rồi! Những người gác tháp canh lập tức nhớ đến chuông báo động, tiếng chuông vang lên, khiến những người làm việc trên cánh đồng ngơ ngác ngẩng đầu nhìn lên. Một số người nhanh chóng vứt cuốc xẻng, chạy hết tốc lực về phía làng, trong khi những người khác vẫn đờ đẫn nhìn lá cờ ba màu ngày càng gần.
Tiếng la hét kinh hoàng, tiếng khóc vang vọng khắp nơi, phá tan sự yên tĩnh vốn có của vùng này.
---
Dưới lá cờ ba màu, Viên Diễn nhìn dân làng Lý Gia Trại đang hoảng loạn, khẽ cười lạnh, không thúc giục binh sĩ tiến lên mà chỉ từ từ đi về phía trước. Trước đây, ngay cả các trại lính chính quy của quân Thục cũng dễ dàng bị hắn hạ, vậy thì một ngôi làng nhỏ này có là gì đâu?
Đi bên cạnh Viên Diễn là Đỗ Hô.
Vị vương của tộc Tung này, sau khi nhận được lời hứa từ Chinh Tây Tướng quân Phí Tiềm, đã trở nên tích cực hơn hẳn. Khi nghe rằng quân đội sắp tấn công Ba Đông và An Hán, ông ta liền tình nguyện dẫn đường, chủ động giúp Viên Diễn dọn sạch đường.
Trước đây, người tộc Tung của Đỗ Hô đã chịu nhiều thiệt thòi dưới tay Lưu Kỳ và bị tiêu diệt nhiều sơn trại. Vì vậy, lần này ông ta vừa
muốn trả thù, vừa muốn giữ thể diện cho mình.
Những người Tung đi cùng Đỗ Hô phấn khích đến mức mắt đỏ hoe, họ hò hét những âm thanh kỳ lạ không ai hiểu được, vung vẩy vũ khí và sẵn sàng lao vào làng để giết chóc.
Sự hận thù giữa người Hán và người Hồ (người man rợ) là như vậy. Trả thù bằng máu là điều bình thường, nhưng nếu xét đến những cá nhân phải chịu đựng, thì đó lại là một tai họa vô cớ.
Người giết tộc nhân của Đỗ Hô không phải là dân làng Lý Gia Trại, nhưng chính họ lại phải hứng chịu cơn thịnh nộ của những người Tung. Điều này có sai không? Có, nhưng lại rất phổ biến. Ngay cả ở thế giới hiện đại, trong các cuộc xung đột tôn giáo hay sắc tộc, chuyện tương tự cũng thường xảy ra.
Khi thấy lửa cảnh báo từ làng bốc lên, ba cột khói đen bốc cao lên trời, Viên Diễn khẽ cười, vung tay ra lệnh: “Tiến lên! Phá làng!”
Trong chớp mắt, đội quân Chinh Tây đã tập hợp lại thành đội hình chỉnh tề, bắt đầu tấn công cổng làng Lý Gia Trại. Đỗ Hô cũng cho một đội quân Tung làm nhiệm vụ hỗ trợ, đi theo hai bên quân lính Chinh Tây.
Lý Gia Trại, với hệ thống phòng thủ yếu ớt và gần như không có cung tên để phản kháng, chẳng cần đến thuốc súng. Những chiếc rìu chiến nặng nề đã dễ dàng chặt đứt chốt cửa, và chỉ trong chưa đầy một nén nhang, ngôi làng nhỏ đã bị chiếm.
“Đầu hàng, sẽ không giết!” Viên Diễn hô lớn rồi liếc nhìn Đỗ Hô.
Đỗ Hô gật đầu: “Tướng quân cứ yên tâm, đầu hàng thì không giết…”
Trước khi đến đây, Viên Diễn đã dặn dò rằng những kẻ chống cự sẽ bị giết, nhưng ai đã đầu hàng thì phải tha mạng.
“Chúng ta là quân của Chinh Tây Đại Hán, không phải bọn cướp bóc! Đầu hàng sẽ được tha mạng!”
Đám thanh niên trai tráng trong Lý Gia Trại, dù đã được huấn luyện đôi chút, nhưng khi trận chiến thực sự đến, họ đều hoảng sợ, chân tay luống cuống. Khi quân lính Chinh Tây và người Tung xông vào, họ lập tức rối loạn, có kẻ hét lên rồi quay đầu bỏ chạy: “Làng vỡ rồi! Làng vỡ rồi!”
Trong Thục Xuyên, hòa bình đã kéo dài quá lâu, không chỉ ở Lý Gia Trại, mà còn ở nhiều ngôi làng khác, người dân tuy có trang bị tốt hơn nhưng cũng chỉ dùng để tranh giành nguồn nước hay đất đai với các làng khác. Chưa từng đối mặt với quân đội thực sự, họ hoàn toàn không biết phải làm gì khi quân đội sắt máu ập đến.
Người dân trong làng bị tập trung lại ở sân phơi lúa, nơi cũng là nơi tụ họp hàng ngày. Một ông lão tóc bạc phơ, run rẩy đứng trước gió lạnh, thấy Viên Diễn đến thì lập tức quỳ xuống, dập đầu liên hồi rồi nói: “Tướng… tướng quân… không biết tướng quân đến, mạo phạm uy danh của ngài… Trong làng còn một ít lương thực, lão nguyện dâng hết cho tướng quân… Người trong làng đều là dân thường hiền lành, già trẻ có đủ, có thể giúp ngài cày cấy ruộng đất… Chỉ xin tướng quân đừng bắt lính trai tráng trong làng…”
Ông lão run rẩy nói mãi không xong, giọng nói cũng không rõ ràng vì đã rụng hết răng. Viên Diễn nghe mà bực mình, thấy ông lão còn định tiếp tục nói, hắn liền lớn tiếng hỏi: “Từ đây đến ngôi làng tiếp theo bao xa?”
“Hả?” Ông lão ngơ ngác một lúc mới trả lời: “Khoảng hai mươi dặm…”
“Chinh Tây tướng quân nhân từ, không muốn giết hại sinh linh… Hai mươi dặm, được, ta sẽ cho các người một ngày lương thực, sau đó phải rời đi ngay, nếu không, đừng trách binh đao vô tình!” Viên Diễn lạnh lùng quát.
“Thưa tướng quân!” Ông lão tái mặt, dân làng phía sau ông cũng khóc lóc van xin: “Nếu đuổi chúng tôi khỏi làng, chúng tôi làm sao sống được nữa? Chinh Tây tướng quân nhân từ, xin hãy mở lòng từ bi, tha cho chúng tôi! Chúng tôi đều là dân vô tội mà!”
“Vô tội?” Viên Diễn cười khẩy: “Ta hỏi ngươi, các ngươi có từng dâng lương thực cho An Hán không? Các ngươi có biết rằng số lương thực các ngươi cung cấp đã giúp cho quân An Hán, để chúng có thể sai binh lính giết hại các tướng sĩ của Chinh Tây không?”
“Tướng quân! Chúng tôi không biết… Chúng tôi bị ép buộc phải làm vậy! Quân lính An Hán ép chúng tôi nộp lương thực, chúng tôi không có cách nào khác…”
Viên Diễn cười lớn: “Đấy chẳng phải là lý do sao? Các ngươi không có cách nào phản kháng quân An Hán, nhưng lại đáng đời khi các tướng sĩ Chinh Tây bị giết hại vì các ngươi sao?”
“Tướng quân! Tướng quân…”
Ông lão định tiếp tục van xin, nhưng thấy Viên Diễn đã quay lưng đi: “Các ngươi có thể trách Lưu tướng quân của An Hán! Hắn thu lương thực của các ngươi, nhưng lại không bảo vệ các ngươi! Các ngươi có một canh giờ, nếu không đi ngay, giết không tha!”
Dân làng Lý Gia Trại còn định thương lượng thêm, nhưng khi thấy đám người Tung bên cạnh đã lao lên, vung vẩy vũ khí, đuổi họ ra ngoài, họ chỉ còn biết gào khóc, dẫn theo già trẻ kéo nhau đi về phía ngôi làng kế tiếp, vừa đi vừa ngoái đầu lại.
“Thưa tướng quân…” Đỗ Hô nhìn đám dân làng đau khổ rời đi, có phần không hiểu, gãi đầu hỏi: “Làm như vậy, chẳng phải khiến quân An Hán tập trung đông hơn, khó đánh hơn sao?”
Viên Diễn nhếch mày: “Ngươi sai rồi, ngược lại, sẽ dễ đánh hơn…”
Đỗ Hô: “?”
Viên Diễn không giải thích thêm, chỉ bước lên tường thành, nhìn những dân làng Lý Gia Trại khóc lóc, lết đi trong đau khổ. Hắn khẽ bĩu môi. Đối với dân làng Lý Gia Trại, đây quả thật là tai họa vô cớ. Nhưng dưới bóng ma của chiến tranh, ai mà không như vậy?
“Cả tổ kiến bị phá, làm sao còn trứng lành?”
Bạn cần đăng nhập để bình luận