Quỷ Tam Quốc

Quỷ Tam Quốc - Q.9 - Chương 2902: Nay ta tư niệm, tuyết rơi dày đặc (length: 16973)

Thành Tây Hải.
Trại tiền quân.
Đại bản doanh của liên quân Tây Vực.
Đêm thu dường như kéo dài giá lạnh vô tận.
Những binh sĩ tuần tra qua lại, mặc áo giáp da lẫn áo sắt, trên áo còn vương sương giá. Họ rụt tay vào áo lông, run rẩy theo đội ngũ. Còn lính gác tại chỗ, chỉ mong ôm lấy đống lửa mà sưởi ấm. Tất cả đều im lặng, chẳng ai trò chuyện, và ngay cả khi nhìn vào ngọn lửa bập bùng, ánh mắt họ cũng mất đi vẻ sục sôi thường thấy.
Đại tướng quân liên quân Tây Vực, Tháp Khắc Tát, lại có thêm một kế hoạch mới.
Đa số binh lính dần hiểu ra rằng Tháp Khắc Tát không thực sự tài giỏi như vẻ bề ngoài. Hắn thường khoác lác về “quang huy của Phật Đà”, “vinh quang của Tây Vực”, và những lời đường mật như “tự do”, “dân chủ”, “thoát khỏi áp bức”, “độc lập”. Nhưng thực tế, hắn chẳng màng đến tính mạng dân Tây Vực.
Mấy ngày qua, một đợt rét đậm tràn về, nhiệt độ đột ngột hạ thấp.
Những người dân Tây Vực không tìm được chỗ tránh gió, đành chịu đựng giá rét trong đêm tối. Bên cạnh họ là đàn gia súc và đồ đạc lỉnh kỉnh, nên không thể nhóm lửa tùy tiện. Mà có lửa cũng thiếu củi để đốt, vì củi trước hết phải dành cho kẻ quyền quý.
“Quý nhân nếu ăn không no, mặc không ấm, làm sao dẫn dắt dân chúng đến thắng lợi?” Vì vậy, dân Tây Vực đành chịu khổ thêm. Họ co ro, ép sát vào đàn gia súc để sưởi ấm, không ai dám khóc. Tháp Khắc Tát đã ra lệnh: kẻ nào ban đêm khóc lóc hay làm ồn sẽ bị tội phá hoại quân tâm. Quân Quý Sương sẽ lập tức lôi ra xử tử.
Lính Quý Sương tự coi mình là thượng đẳng, còn dân Tây Vực chỉ là hạ tiện, giết vài chục người cũng chẳng đáng bận tâm.
Trong đêm tối, đôi khi vang lên tiếng cười đùa xen lẫn tiếng kêu la đau đớn – đó là khi đám lính Quý Sương đang tìm thú vui. Dù khốn khổ đến đâu, niềm vui của đám chủ soái vẫn phải đặt lên hàng đầu:
Rượu ngon, mỹ nữ, thịt dê.
Ca hát, nhảy múa, thỏa sức vui chơi.
Tháp Khắc Tát biết rõ những trò trụy lạc này, nhưng hắn chẳng quan tâm. Đối với hắn, binh lính Quý Sương mới là nòng cốt. Nếu có thể nuôi dưỡng quân đội bằng máu thịt của dân Tây Vực, thì còn gì tốt hơn?
Đã có những kẻ chống đối, nhưng tất cả đều bị giết. Những kẻ bỏ trốn cũng chẳng thoát, bị bắt lại và mổ bụng trên vách đá, mặc cho chim kền kền ăn thịt.
Những người kiên cường đã chết. Những người không chịu khuất phục cũng đã chết.
Số còn lại chỉ biết cúi đầu, chờ đêm lạnh qua đi.
“Sống thêm một khắc, là được một khắc.” Còn sống được bao lâu, không ai biết. Thậm chí, không ai còn sức mà quan tâm đến điều đó.
Dù chưa đến mùa đông, cái lạnh đã thấm vào tận xương tủy.
Trong một góc của đại bản doanh liên quân, cạnh đống lửa, những người Thiện Thiện tụ tập lại.
Thiện Thiện còn có một cái tên khác, cái tên mà đời sau quen thuộc hơn: Lâu Lan.
Lâu Lan vốn là tiểu quốc quan trọng nằm ở phía đông con đường tơ lụa.
Phía đông thông với Đôn Hoàng, phía tây thông đến Thả Mạt, Tinh Tuyệt, Câu Di, và Vu Điền; đông bắc nối với Xa Sư, tây bắc thông qua Yên Kỳ. Vị trí hiểm yếu này không chỉ giúp Lâu Lan trở thành giao lộ quan trọng trên con đường tơ lụa mà còn khiến nơi đây nổi tiếng với ngọc thạch, ngựa, lừa, và lạc đà. Là tiểu quốc nằm ở cực đông Tây Vực, Lâu Lan bị cuốn vào vòng xoáy tranh chấp giữa nhà Hán và Hung Nô, cả hai đều muốn kiểm soát nơi này. Tình thế Lâu Lan đúng là “Không nương tựa vào bên nào, không thể yên thân.” Đến năm 77 TCN, đại thần nhà Tây Hán là Phó Giới Tử đã giết vua Lâu Lan, đổi tên nước thành Thiện Thiện, và dời đô xuống phía nam Lâu Lan.
Do mối quan hệ phức tạp với Đông Hán, nội bộ Thiện Thiện liên tục xảy ra tranh chấp. Có phe thân Hán, có phe chống Hán, nhưng phần đông chỉ lo tranh giành quyền lực, tùy theo lợi ích của mình mà quyết định đứng về phe nào.
Hiện tại, Thiện Thiện đã chia thành hai phe. Một phe do tiểu vương tử lãnh đạo, ngoài danh nghĩa ra chẳng có thực quyền, chỉ biết chạy đến cầu cứu người Hán. Phe còn lại do thúc phụ của vương tử cầm đầu, nắm thực quyền. Khi biết vương tử cầu cứu nhà Hán, hắn lập tức chọn đứng về phía liên quân Tây Vực.
Bên ngoài vòng trại, một số chiến binh Thiện Thiện mai phục, canh chừng cẩn thận, không để bất kỳ ai đến gần. Còn bên trong vòng lửa, vua Thiện Thiện, Đồng Cách La Già, đang cùng vài tướng thân cận bàn bạc kín đáo.
Giữa lúc ấy, tiếng thét đau đớn của một người phụ nữ vang lên trong đêm tối, theo sau là những tràng cười dâm ô của lũ côn đồ.
Đồng Cách La Già ngẩng đầu, mặt mày u ám, khẽ hừ lạnh:
“Lại là bọn Quý Sương khốn nạn này giở trò…” Chuyện không thể đánh bại quân Hán vốn có nhiều nguyên nhân, nhưng giờ Đồng Cách La Già đã hiểu ra lý do quan trọng nhất: Các tiểu quốc Tây Vực đều nhìn thấu bộ mặt thật của Tháp Khắc Tát.
Lúc đầu, Đồng Cách La Già muốn mượn cớ tham gia liên minh Tây Vực để giải quyết mâu thuẫn nội bộ. Nhưng bây giờ, chẳng những không đạt được mục đích mà tình hình còn có thể xấu đi.
“Kế hoạch, kế hoạch cái gì chứ!?” – Một tướng Thiện Thiện lầm bầm chửi – “Đánh quân trại bao nhiêu ngày không xong, mà hắn còn dám bảo có kế hoạch mới! Thật buồn cười!” “Đúng vậy! Lại còn bảo đánh viện binh của người Hán! Nếu quân Hán thật sự có viện binh, chẳng phải đã đến từ lâu rồi sao?” “Hắn đâu muốn hao tổn binh mã của mình! Chỉ muốn dùng chúng ta làm vật hy sinh thôi! Khi chúng ta chết hết, hắn sẽ đường hoàng chiếm lấy dân chúng của chúng ta. Dù không thắng được người Hán, bọn chúng vẫn sẽ ăn uống no nê!” Một người khác càu nhàu: “Bộ Sâm đại sư sao lại không nhận ra chuyện này?!” “Ai mà biết được!” “Vương thượng, bây giờ chúng ta phải làm sao?” – Mọi ánh mắt đổ dồn về phía Đồng Cách La Già.
Đồng Cách La Già suy nghĩ một lát, rồi nhìn từng người:
“Bây giờ… bọn chúng đã suy yếu lắm rồi. Điều này, các ngươi cũng thấy rõ, phải không?” Thực ra, không phải bây giờ mới suy yếu, mà ngay từ đầu đã chẳng có sự đoàn kết nào cả.
Đồng Cách La Già nói tiếp giọng trầm:
“Chúng ta phải nghĩ đến lợi ích của mình trước. Các ngươi thử nghĩ xem, lợi ích của chúng ta ở đâu?” Bọn thuộc hạ lại bàn tán, người thì nói là danh tiếng, kẻ thì nói là gia súc, có người lại nói đó là binh lính và chiến mã… Đồng Cách La Già lần lượt lắc đầu bác bỏ ý kiến của thuộc hạ, cuối cùng nói chậm rãi:
“Không phải những thứ ấy… Các ngươi thử nghĩ xem, trong lúc chúng ta ở đây bàn bạc, các nước nhỏ khác có đang âm thầm bàn bạc chuyện gì không? Tại sao đánh mãi không hạ được quân trại mà chẳng ai lên tiếng, thậm chí còn ít người dám chỉ trích Tháp Khắc Tát? Đây không phải vì bọn họ nghe theo hắn, mà là…” Hắn nheo mắt, nói nhỏ tiếp:
“Đây chính là một cơ hội… Nếu Tháp Khắc Tát thắng được quân Hán—hừm, bây giờ xem ra có chút khó khăn—thì cũng tốt. Nhưng nếu hắn thua, cũng không sao, bởi vì một khi các nước nhỏ đã hợp sức một lần, ắt sẽ có lần thứ hai. Bộ Sâm đại sư chắc đã nghĩ đến điều này…” Nghe vậy, mọi người nhìn nhau, rồi đồng thanh hỏi:
“Vậy ý Vương thượng bây giờ phải làm sao?” Đồng Cách La Già cười lớn:
“Dù sao đi nữa, chúng ta cũng phải giữ gìn binh lực của mình! Có sức mạnh thì mới có tiếng nói, mới có tương lai! Ta sẽ đến gặp Tháp Khắc Tát, xin điều quân của chúng ta ra phía đông, lấy cớ phòng quân Hán đánh lén. Quân trong trại của Hán đã sắp hết sức, nhưng các ngươi cũng biết rõ, mãnh thú bị thương nặng luôn là kẻ nguy hiểm nhất… Chúng ta không cần phải liều mạng lúc này.” Bọn thuộc hạ cùng nhau khen ngợi sự mưu lược của Đồng Cách La Già. Tuy nhiên, có người lo lắng hỏi:
“Nhưng nếu chúng ta chuyển đến phía đông, liệu có bị quân Hán tấn công thật không?” Đồng Cách La Già cười lớn, trấn an:
“Tháp Khắc Tát đã phái người mai phục viện binh của Hán. Dù quân Hán có đến, chúng cũng phải giao chiến với phục binh Tây Vực trước. Các ngươi không cần lo lắng chuyện này…” Chiến tranh giống như một màn sương mù mịt, người ngoài cuộc mới nhìn rõ, còn người trong cuộc thì cứ mò mẫm trong bóng tối. Nếu người Ô Tôn biết rằng quân Hán chỉ có ít binh lực, và nếu Tháp Khắc Tát biết tin Phỉ Tiềm đã đến Ngọc Môn Quan, hẳn kế hoạch của họ sẽ khác hẳn.
So với Tây Vực, quân Hán vượt trội hơn về khả năng trinh sát. Binh lính tinh nhuệ của Hán không chỉ giỏi ẩn nấp mà còn hành quân nhanh chóng, vượt qua mọi địa hình.
Ngay khi Hàn Quá tấn công quân Ô Tôn, thì Trương Liêu cũng dẫn quân tấn công thẳng vào liên quân Tây Vực.
Trương Liêu vung tay ra hiệu cho người truyền lệnh phía sau:
“Báo cho bọn chúng biết, chúng ta đã đến!” Hàng chục trống trận được dựng lên, tiếng trống rền vang đồng loạt nổi lên, âm thanh như sấm rền vang khắp đất trời, theo gió cát sa mạc mà ập đến. Tiếng trống ấy như xé tan cờ xí của đối phương, làm tinh thần quân Tây Vực rung chuyển.
Trong quân trại, binh lính Hán nghe tiếng trống trận thì hò reo vang dậy. Ngược lại, liên quân Tây Vực trở nên rối loạn, vô cùng hoảng hốt.
Trên ngọn đồi nhỏ, Trương Liêu mỉm cười, ánh mắt sắc lạnh nhìn về phía quân địch. Hắn bình tĩnh quay lại, ra lệnh cho binh lính:
“Dàn trận, chuẩn bị tấn công!” Bên trong quân Tây Vực, tiếng tù và nổi lên dồn dập, lúc dài lúc ngắn, nhịp điệu gấp gáp mà hỗn loạn. Không khí căng thẳng bao trùm, báo hiệu trận chiến sắp bùng nổ.
Các tướng Tây Vực tức giận chửi rủa, mắng nhiếc Tháp Khắc Tát:
“Hắn từng khoác lác sẽ vừa đánh hạ quân trại, vừa mai phục viện binh Hán! Bây giờ thì sao?!” Những lời huênh hoang của Tháp Khắc Tát dường như còn văng vẳng đâu đây, nhưng giờ quân Hán đột nhiên xuất hiện, khiến bọn chúng không khỏi hoang mang.
Càng nghĩ, đám tướng Tây Vực càng rối loạn, lòng đầy ngờ vực:
“Chẳng lẽ quân Hán lại dùng yêu thuật gì nữa? Nếu không, tại sao Bộ Sâm đại sư phải làm lễ pháp sự liên tục, để trừ tà thuật của chúng?” Đối với liên quân Tây Vực, việc Trương Liêu bất ngờ dẫn quân xuất hiện chẳng khác nào ma thuật. Thực ra, đây chỉ là nhờ trinh sát vượt trội của quân Hán, giúp Trương Liêu sớm phát hiện đội quân Tây Vực được phái đi phục kích.
Phải nói rằng, đám quân phục kích của Tây Vực hoàn toàn thiếu chuyên nghiệp. Đã mai phục, thì ít nhất phải kín đáo, thế nhưng những binh lính này lại như đám thợ săn vụng về, nấp trong bụi cỏ mà vẫn để lộ nửa người, cứ tưởng giấu mặt là đã ẩn mình thành công.
Thực tế, việc tổ chức phục kích trên sa mạc cực kỳ khó khăn. Giống như kế Mã Ấp thời Tây Hán. Khi ấy, Hán Vũ Đế muốn diệt Hung Nô, đã huy động toàn quốc, đổ hết tài lực bố trí quân mai phục ở Mã Ấp. Hung Nô gần như đã sập bẫy, nhưng chỉ vì một sơ suất nhỏ của quân Hán mà kế hoạch bị lộ. Một binh sĩ bị bắt đã khai hết, khiến Hung Nô phát giác, phá hỏng toàn bộ mưu đồ.
Ngay cả khi phục kích thành công, chiến thắng vẫn chưa chắc chắn. Cần một đội quân tinh nhuệ đủ sức đánh tan đối thủ. Nếu không, dù có bao vây được, cũng chỉ biến mình thành mồi ngon cho kẻ thù.
Trong lịch sử chiến tranh Triều Tiên thời Vạn Lịch, quân Oa từng dùng hàng nghìn kỵ binh làm mồi nhử, dụ quân Minh vào bẫy. Nhưng chính trong vòng vây đó, quân Minh đã khiến Oa tặc trả giá đắt. Kỵ binh Minh dù bị bao vây vẫn chiến đấu như hổ dữ, khiến quân Oa thảm bại. Sau đó, quân Minh còn phản công, buộc quân Oa phải tháo chạy, bỏ lại vòng vây.
Vì vậy, kế hoạch phục kích Trương Liêu của Tháp Khắc Tát tuy không tồi, nhưng liên quân Tây Vực lại không đủ khả năng giữ kín hành tung. Không những thế, chúng cũng không đủ mạnh để hoàn thành trận phục kích. Dù Trương Liêu có sập bẫy, e rằng chúng cũng không giữ nổi hắn.
Giờ đây, liên quân Tây Vực chẳng cần bàn tới phục kích nữa, bởi mũi thương của Trương Liêu sắp chọc thẳng vào mặt chúng!
Ba lá cờ của kỵ binh Hán tung bay rực rỡ dưới ánh mặt trời. Lá đại kỳ đỏ rực, biểu tượng của Đại Hán, phấp phới kiêu hãnh giữa sa trường.
Dưới những lá cờ uy nghi đó, đội hình kỵ binh Hán xếp hàng ngay ngắn, chỉnh tề, từng đội quân như lưỡi đao sắc bén chực chém xuống.
Ở các vị trí khác nhau, Tháp Khắc Tát, Bộ Sâm, cùng các thủ lĩnh Tây Vực nhìn về ngọn đồi thấp, nơi quân Hán bất ngờ xuất hiện. Lòng chúng đầy nghi hoặc: Quân Hán làm thế nào đến được đây mà không bị phát hiện?
Có lẽ do chúng lơ là. Có lẽ trinh sát đã sơ suất. Có lẽ ở đâu đó đã lỏng lẻo.
Bởi ai cũng có thể mắc sai lầm.
Trinh sát Tây Vực cũng chỉ là binh sĩ tầm thường, thậm chí có người vốn là dân du mục. Họ không có kiến thức chỉ huy chiến trường, cũng không phải tinh anh trinh sát tỉ mỉ như thiên lý nhãn hay thính tai như thần.
Đặc biệt khi thấy quân mình đông đảo, chúng sẽ tự cho rằng quanh mình đều là người phe ta. Trong cái gọi là “khu vực an toàn”, không ai dò xét kỹ càng, và sự chủ quan ấy đôi khi phải trả giá đắt.
Khi tai họa chưa ập đến, rất nhiều kẻ vẫn thản nhiên. Tháp Khắc Tát cũng vậy, cố giữ bình tĩnh, như thể mọi chuyện đều nằm trong kế hoạch.
“Haha, người Hán đến thật đúng lúc!” – Tháp Khắc Tát cười lớn, nhưng chính y cũng không rõ nụ cười đó có bao nhiêu phần tự tin, hay chỉ là gượng gạo. Y hô lớn ra lệnh cho truyền lệnh binh: “Mau báo cho các tộc trưởng! Lập tức tập hợp và báo cáo quân tình! Chúng ta sẽ quyết chiến ngay tại đây, tiêu diệt hoàn toàn quân Hán!” Hàng chục truyền lệnh binh lĩnh mệnh rồi thúc ngựa phóng đi, bụi bay mù mịt.
Một lát sau, Tháp Khắc Tát lại ra lệnh: “Điều hai đội quân, mỗi đội một ngàn người, tập kết bên sườn quân trại. Nếu quân Hán phá trại ra, đợi chúng ra được nửa đường rồi hãy đánh!” Một toán truyền lệnh binh khác vội vàng rời đi.
Tháp Khắc Tát quay đầu nhìn xung quanh, rồi hét lớn với quân lính: “Kiên trì! Chỉ cần kiên trì, chúng ta sẽ thắng! Quân ta đông, thắng lợi nhất định thuộc về chúng ta!” Phía sau, Bộ Sâm đứng lặng nhìn khói bụi cuồn cuộn từ những bước chân hỗn loạn của binh mã. Y nhắm mắt, chắp tay cầu nguyện, không rõ các vị Phật trên trời có nghe thấy lời khấn của mình hay không.
Tháp Khắc Tát tuy đã đưa ra đối sách hợp lý, phần nào thể hiện sự lão luyện của một tướng quân lão thành. Nhưng đến đó là cùng, bởi y chưa từng thống lĩnh một đội quân khổng lồ như thế này.
Ngay từ đầu đã có vô vàn vấn đề nảy sinh, nhưng Tháp Khắc Tát không tìm được cách giải quyết dứt điểm, đành làm ngơ, coi như không hay biết. Chỉ cần không ai nói đến, thì coi như vấn đề không có.
Nhưng sự thật là sao?
Hậu cần là vấn đề nhức nhối nhất. Quân đông kéo theo vô số vấn đề về lương thực. Không chỉ thiếu hụt, mà ngay cả khi có đủ, việc phân phát cũng thường xuyên không tới nơi tới chốn. Có người no nê, nhưng chỉ cách vài bước chân đã có kẻ đói mòn.
Nhìn qua tưởng như đây chỉ là chuyện vặt: ăn sớm hay muộn có gì quan trọng? Nhưng trên chiến trường, “người ta không lo thiếu mà lo bất công.” Khi việc chia chác không đồng đều, liền sinh ra những kẻ ăn no rửng mỡ bày trò công kích, khiêu khích nhau. Những lời cạnh khóe và bất bình nhanh chóng biến thành cãi lộn, thậm chí ẩu đả, gây rối loạn trong quân.
Không chỉ hậu cần, mà vấn đề giao tiếp cũng là một điểm yếu chết người.
Quân của Tháp Khắc Tát chủ yếu nói tiếng của người Quý Sương, có gốc từ tiếng Hung Nô cổ, pha trộn qua nhiều tộc như Đại Nguyệt Thị. Tuy nhiên, liên quân Tây Vực còn có nhiều tộc khác như Saka, Khương, mỗi nơi lại dùng ngôn ngữ và tiếng địa phương khác nhau. Có những từ nghe qua tưởng chừng giống nhau nhưng nghĩa hoàn toàn trái ngược.
Giống như từ “đến” và “đi” trong một số phương ngữ đời sau, chỉ bằng một từ mà có thể mang cả hai nghĩa. Lúc nhàn rỗi, lính truyền lệnh của Tháp Khắc Tát còn có thể dùng tay ra hiệu, từ từ diễn giải, nhưng khi trận chiến sắp tới, thời gian đâu mà bày đặt? Ngay lúc này, với Trương Liêu đã áp sát, liệu có kịp để các tộc quân Tây Vực hiểu được lệnh của nhau?
Tháp Khắc Tát biết trước điều này, nhưng vì chủ quan nên đã lơ là. Giờ đây, tuy hắn đã nhanh chóng phát lệnh và bố trí binh lực theo tình hình, nhưng những rắc rối không thể tránh đã bắt đầu xuất hiện khi lính truyền lệnh cố gắng truyền đạt mệnh lệnh đến các thủ lĩnh của Tây Vực.
Tuy nhiên, những khó khăn đó vẫn chưa phải là vấn đề lớn nhất.
Khi Trương Liêu giương cao trường thương, dẫn kỵ binh Hán lao thẳng vào trận địa, nhược điểm lớn nhất của liên quân Tây Vực cuối cùng đã phơi bày rõ ràng:
Đó là lòng tin và sự đoàn kết.
Bạn cần đăng nhập để bình luận