Thư Viện Khoa Học Kỹ Thuật

Chương 791: Không liên quan đến ta

Đáp án này khiến Ngũ Băng vô cùng kinh ngạc. Cô là người kiểm định và thử nghiệm lâm sàng loại thuốc này, nên đương nhiên biết rõ tác dụng của nó.
Cải thiện hoạt động trao đổi chất của tế bào con người; tăng cường thể chất, tốc độ, sức bền, và khả năng miễn dịch; có thể giúp cho người bình thường sở hữu sức mạnh của một binh sỹ đã qua huấn luyện.
Hiện nay, loại thuốc mang tính chiến lược này vẫn đang được giữ tuyệt mật và chỉ sử dụng cho một số ít bộ đội đặc chủng và cảnh vệ quốc gia. Nhưng Triệu Mẫn là cánh tay đắc lực của Trần Mặc, hắn cho cô ấy biết đến dự án này và sử dụng thuốc để nâng cao thể chất cũng là chuyện không thể bình thường hơn.
“Hiện giờ thì ta cũng chưa chắc chắn hoàn toàn, nhưng đây là lời giải thích khả thi nhất. Ta bắt buộc phải thử nghiệm để quan sát hiệu quả của nó.”
Trần Mặc nói.
Ngũ Băng trầm tư một lúc, hỏi: “Ngươi muốn thử nghiệm thuốc phát triển tiềm năng?”
“Đúng vậy.”
“Cấp trên sẽ không đồng ý chúng ta sử dụng loại thuốc này cho người bình thường trên quy mô lớn, đặc biệt là bên phương Tây. Nếu khả năng của loại thuốc này bị rò rỉ ra bên ngoài, con át chủ bài của chúng ta sẽ mất đi tác tác dụng. Nói không chừng, thế giới bên ngoài sẽ phát hiện và tìm ra thành phần của thuốc.”
Ngũ Băng nói.
“Ta cũng không định sử dụng trên quy mô lớn, ta chỉ muốn chữa khỏi bệnh của Triệu Mẫn và Lam Khê, những người khác không liên quan gì đến ta.”


Viện nghiên cứu Y tế Hughes, một trong những tổ chức nghiên cứu Y khoa phi lợi nhuận của Hoa Kỳ nổi tiếng nhất ở Hoa Kỳ.
Trong tình hình bùng phát khủng bố sinh học toàn cầu, dưới sự điều phối của Tổ chức Y tế thế giới WHO, Viện nghiên cứu Y tế Hughes đã trở thành cơ sở nghiên cứu và thí nghiệm của “Đội ngũ thiên thần” nhằm tạo ra loại thuốc đặc trị virus VFV.
Khâu Tưởng dẫn đầu đoàn đội và đi về phía phòng họp, trong tay hắn là một bản báo cáo nghiên cứu kháng thể VFV, nhưng khuôn mặt của mọi người lại không biểu lộ quá nhiều vui mừng.
Thông thường, một trong những cách phổ biến nhất để điều chế thuốc kháng virus chính là tìm kiếm kháng thể trong huyết thanh hoặc dịch cơ thể của bệnh nhân. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian này, “Đội ngũ thiên thần” đã phát hiện ra rằng các kháng thể trong huyết thanh của bệnh nhân quá yếu để có thể loại bỏ virus VFV.
Ngược lại, bọn họ cũng không có cách nào để tìm ra những bệnh nhân VFV trong thời kỳ hồi phục, bởi vì độc tính của con virus này quá mạnh, các kháng thể có trong hệ miễn dịch của con người cũng không thể “tiêu diệt” hoàn toàn loại virus này, khiến bệnh nhân tử vong ngay khi các triệu chứng vừa bộc phát.
Vì lẽ đó, bọn họ vẫn mãi loay hoay mà không thể điều chế thuốc đặc trị virus VFV.
Sau khi thảo luận, “Đội ngũ thiên thần” đã quyết định thí nghiệm huyết thanh miễn dịch lên tám loài động vật, sau đó lây nhiễm virus cho những con vật đó. Tuy nhiên, bọn họ cũng sớm phát hiện ra rằng, ngay cả những loại huyết thanh miễn dịch trâu bò nhất cũng không có tác dụng rõ rệt trong việc điều trị VFV.
(*) Huyết thanh miễn dịch tương tự vacxin, được dùng nhằm mục đích tăng cường khả năng miễn dịch để chống lại các căn bệnh nguy hiểm
Trong thời gian này, “Đội ngũ thiên thần” thực hiện thí nghiệm mỗi ngày với hàng trăm phương thức khác nhau. Nhưng sau khi thử nghiệm tất cả các phỏng đoán khả thi mà bọn họ có thể nghĩ ra, nhóm nghiên cứu cuối cùng cũng nhận thấy rằng kháng thể đơn dòng có tỷ lệ thành công cao nhất.
(*) Kháng thể đơn dòng là các phân tử được sản xuất trong ống nghiệm, có thể khôi phục, tăng cường hoặc bắt chước cuộc tấn công của hệ thống miễn dịch đối với các tế bào ung thư hay các loại virus gây bệnh truyền nhiễm
Để đẩy nhanh tiến độ nghiên cứu, đoàn đội 72 người đã chia thành tám nhóm nhỏ, bốn nhóm phụ trách tìm kiếm các phương pháp điều trị khác nhau, bốn nhóm còn lại phụ trách nghiên cứu 16 kháng thể đơn dòng, đoàn đội mà Khâu Tưởng dẫn dắt là một trong số đó.
Trong quá trình thử nghiệm, bốn nhóm nghiên cứu đã sử dụng 1.000 lần LD 50 để đầu độc những con chuột thí nghiệm.
(*) LD 50 là một cách thức đo lường khả năng ngộ độc ngắn hạn (độc tính cấp tính) của một hoá chất với liều lượng đủ để gây ra cái chết cho 50% (một nửa) của một nhóm động vật dùng thử nghiệm.
Trong vòng 24 giờ sau khi phơi nhiễm, bốn nhóm chuột được tiêm 16 loại kháng thể đơn dòng chỉ còn lại 11 loại có hiệu quả; sau 48 giờ, chỉ còn 5 kháng thể vẫn còn hiệu quả; sau 72 giờ, chỉ còn hai kháng thể còn hiệu quả.
Trong số đó, một loại kháng thể được nghiên cứu bởi nhóm một do Khâu Tưởng dẫn dắt, và một loại kháng thể được nghiên cứu bởi nhóm ba do nhà khoa học y khoa người Anh Judson chỉ huy.
Sau đó, bọn hắn bắt đầu thí nghiệm hai loại kháng thể này trên thỏ. Sau 24 giờ, cả hai loại kháng thể đều phát huy tác dụng rõ rệt; sau 48 giờ, khả năng của kháng thể đơn dòng bắt đầu có sự khác biệt, thời gian càng kéo dài, tác dụng của kháng thể ngày càng yếu.
Tuy thời gian ủ bệnh của virus VFV trong thí nghiệm lâu hơn rất nhiều so với những trường hợp thông thường, nhưng kháng thể hoàn toàn không thể sử dụng trong việc điều trị, cuộc nghiên cứu lại rơi vào bế tắc một lần nữa.
Cuối cùng, sau nhiều cuộc thảo luận nảy lửa, mọi người quyết định áp dụng phương pháp “Cocktail” trong cuộc nghiên cứu thuốc đặc trị ebola. Bọn họ trộn lẫn 4 kháng thể đơn dòng có hiệu quả tốt nhất, sau đó dùng một loại virus có thể tạo ra interferon để làm chất bổ trợ cho kháng thể “Cocktail”, giúp “Cocktail” vẫn có thể phát huy tác dụng sau 72 giờ.
(*) Interferon là một nhóm các protein tự nhiên được sản xuất bởi các tế bào của hệ miễn dịch ở hầu hết các động vật nhằm chống lại các tác nhân ngoại lai.
Mà phương thuốc “Cocktail” do bọn hắn điều chế được đặt tên là số AG72.
Hiện giờ, kết quả thử nghiệm của AG72 đang nằm trong tay Khâu Tưởng. Nhìn bản báo cáo trên tay, hắn muốn vui mừng cũng không nổi, bởi vì kết quả khác xa với những gì bọn họ đã tưởng tượng.
Bạn cần đăng nhập để bình luận

admin

Cấp 7

3 tháng trước

emođỉnh quá, tìm bộ này mãi