Chuế Tế

Chương 372: Tâm nguyện thiên hạ đại đồng (thượng) (1)

Triều Vũ bên này ngay từ đầu đã luôn tranh thủ liên lạc với Oán Quân của Quách Dược Sư, đặc biệt là Tần Tự Nguyên. Ông ta biết quân đội của triều Vũ thực lực không đủ đánh chính diện nên khiến Mật Trinh Ti xuất ra rất nhiều sức lực, dùng đủ các loại phương pháp khác nhau. Lần này đối với Mật Trinh Ti mà nói chính là một hồi đại thắng … Tin tức Quách Dược Sư và Thường Thắng Quân quy hàng truyền khắp toàn thành. Trong hai ngày này ở thành Biện Lương, đây đã trở thành đề tài câu chuyện tiêu điểm của mọi người trong lúc trà dư tửu hậu, đồng thời khi thúc đẩy chứng thực việc này, những người thuộc tầng đỉnh kim tự tháp của triều Vũ cũng đang cảm thụ được sự vui sướng của thành quả thắng lợi.

Gần một năm nay, người Kim tấn công hung mãnh, đã hạ gần một nửa đất đai của nước Liêu. Cứ tiếp tục như vậy, gần như có thể nói là đã đập vang tiếng chuông tang của nước Liêu. Trong triều Vũ, có nhiều kẻ thờ phụng đạo lý "Đắc đạo đa trợ thất đạo quả trợ

- Nhà cai trị biết theo chính đạo chính nghĩa thì được đa số dân chúng ủng hộ, còn kẻ bỏ mất chính nghĩa thì số người giúp đỡ rất là hiếm hoi", lúc này lôi kéo được Thường Thắng Quân tới liền coi đây là bằng chứng tốt nhất của đạo lý này.

Từ khi mới bắt đầu khai chiến, thế lực chủ chiến trong triều đình đã có khuynh hướng tương đối nghiêm trọng, nhưng vẫn còn một bộ phận người theo phái chủ hòa.

Mà trong phái chủ chiến cũng không phải là đoàn kết thành một khối, sau tình thế chiến cuộc liên tiếp bại trận, dần dần chia làm hai đám. Một đám yêu cầu quân đội ở tiền phương phải chiến đấu hăng hái để chiến thắng, phải thể hiện thực lực của chính mình, sau này mới dễ nói chuyện trong lúc đàm phán với người Kim. Một đám khác thì bởi vì liên tục chiến bại, liền bắt đầu cổ xúy bên ta phải bảo tồn thực lực, phải vận dụng binh pháp, ngồi chờ nhìn hai hổ đấu nhau, chờ đến khi cả Kim và Liêu đều bị thương, mới thuận thế được lợi.

Ngay từ đầu thì đã có cả hai cách nói nhưng chỉ có điều sau chiến cuộc biến hóa mới trở nên rõ ràng tách biệt nhau ra. Nhưng bất kể như thế nào, điểm mấu chốt của phái chủ chiến vẫn là phải thu phục U Châu, Yến Châu, ít nhất không thể khiến phái chủ hòa chiếm thượng phong. Khi tin Thường Thắng Quân quy hàng được xác định, tiếng hô của phe chủ hòa vẫn chiếm thượng phong. Lúc này phương bắc án binh bất động, Đồng Quán dẫn Cấm quân lên phía bắc, vẫn chưa khai chiến một lần nữa thì Quách Dược Sư đã đầu hàng, chính là phù hợp với vương đạo của Thiên triều thượng quốc. Đối với đại bộ phận mọi người mà nói, đây là dấu hiệu hưng thịnh lên của triều Vũ.

Tiếng hô nhiệt liệt, mọi người đồng lòng, mà các phương thức để chúc mừng lúc này đương nhiên chính là các loại yến hội, tụ hội. Hai ngày này, trong thành Biện Lương có đủ các loại tụ hội khiến các thương gia đều phát tài. Các thanh lâu, quán ăn cũng thu nhập tăng vọt. Mấy hội văn thơ cũng tiến hành rất sinh động. Ở Tĩnh Tư Viên, một vị tài tử tên là Vu Thiếu Nguyên đã sáng tác bài Vương Đạo Phú, được bầu là tác phẩm lớn hiếm có trong gần trăm năm nay. Có phong cách thời Đường, văn chương theo thể tứ lục, lưu loát thuyết minh tính tất yếu gây dựng lại thịnh thế của triều Vũ. Tài văn chương khiến mọi người đọc đều phải than thở khen ngợi không thôi.

- Giải thích Thể văn tứ lục là một biến thể của lối cổ thi. Lối cổ thi có phong, nhã, tụng, phú, tỉ, hứng, phần nhiều là thể tỉ, thể hứng. Lối văn tứ lục thì chỉ ưa chuộng sự cầu kỳ, chạm trồ, dùng câu đối chọi cho hoa mỹ. Đời Hán, thể văn tứ lục rất hùng hồn, không có kể gì thanh luật cả, đó là lối văn tứ lục cổ thể. Đời Đường mới bắt theo thanh luật, văn từ rất hoa lệ. Đời Tống cứ nhân theo lối văn ấy, nhưng khí lực hơi kém. Từ đời Tống Nhân Tôn trở về sau, có Tô Đông Pha nghĩ ra một thể cách mới. Bài văn tứ lục không câu nệ hình thức, chọn lấy lời văn hoa diễm, chỉ cốt làm những câu đối nhau cho nhất khí, thành ra lối văn riêng một nhà. Đó cũng là một lần biến đổi của thể văn tứ lục. Từ đời Nguyên, đời Minh trở về sau, thể văn tứ lục ý tứ hàm xúc không bằng đời Đường, thể cách hùng hồn không bằng đời Tống. Hết giải thích.

Văn đạo hưng thịnh đương nhiên cũng có thể xem như biểu hiện của thế vận hưng thịnh, mọi người cũng sẽ không ai dị nghị điều này. Sau khi làm ra Vương Đạo Phú, vị Vu Thiếu Nguyên này lại được hoa khôi của kinh thành là Cơ Vãn Tình ưu ái.

Trong hai ngày này, chuyện này trở thành giai thoại lan truyền trong kinh thành. Y đã mơ hồ có xu thế sánh vai với tứ đại tài tử kinh sư là Chu Bang Ngạn, Trịnh Thúc Hòa, Vương Nguyên Thế và Tạ Đạo Tam.

Những việc thế này là phong cách lưu hành nhất ở thời đại này, mặc kệ ở đâu cũng đều không thể bỏ qua được. Chiều nay, trong Hữu tướng phủ cũng có mấy người cầm Vương Đạo Phú truyền đọc và nghị luận. Đây là đông viện của Hữu tướng phủ, rất gần với thư phòng mà Tần Tự Nguyên luôn luôn làm việc. Trong phòng có rất nhiều sổ sách, công văn, cũng chứng minh mấy người này đều là phụ tá hoặc sư gia tín nhiệm của Tần Tự Nguyên. Trong đó có một người là hòa thượng trung niên bộ dạng anh tuấn. Ba người còn lại thì phân biệt là bộ dạng khoảng ba mươi tuổi, bốn mươi tuổi và năm mươi tuổi. Khí chất của ba người đều thành thục, điềm đạm, chắc chắn nhưng tuổi thì như thể viết rõ trên mặt, vừa nhìn khiến người ta đã có cảm giác như vậy.

- Lưu loát, đầy vẻ tự nhiên, phóng khoáng. Đây là bài văn được xưng là tài văn ngút trời của Vu Thiếu Nguyên … Năm nay mới chỉ khoảng hai mươi nhỉ. Nhưng thật ra khiến ta nhớ tới Vương Tử An …

Người vừa đọc xong bài phú liền nói chính là lão già khoảng năm mươi tuổi, vừa nói vừa gật đầu tán thưởng. Vương Tử An mà lão nói chính là Vương Bột trong Sơ Đường Tứ Kiệt đã viết nên Đằng Vương Các Tự. Có thể làm phụ tá trong Hữu tướng phủ đều là hạng người có tài văn chương cao siêu. Vị lão nhân này có thể đem Vu Thiếu Nguyên so với Vương Tử An, đủ để chứng minh thành tựu của y.

- Giải thích "Sơ Đường Tứ Kiệt", Thơ Đường có thể chia ra làm 4 giai đoạn: Sơ Đường từ năm 618 đến năm 713, Thịnh Đường từ năm 713 đến năm 766, Trung Đường từ năm 766 đến năm 835 và Vãn Đường từ năm 835 đến năm 907.

Thời Sơ Đường, các nhà thơ mệnh danh là "Tứ kiệt" gồm Dương Quýnh, Lư Chiếu Lân, Lạc Tân Vương và Vương Bột đã thay đổi được phần nào phong khí ủy mị của thơ các triều đại trước.

Còn về bài "Đằng Vương Các Tự" thì bắt nguồn từ giai thoại Đằng Vương Các như sau:

"Con của vua Cao Tông nhà Đường bấy giờ làm Thái Sử ở Hàng Châu, được phong là Đằng Vương, có dựng một cái gác bên sông Tầm Dương gọi là Đằng Vương Các. Lúc Diêm Bá Dư ra giữ chức Đô Đốc Hàng Châu, đặt tiệc tại gác Đằng Vương để thết tân khách. Muốn khoe tài chàng rể, bảo làm trước một bài tự, rồi mời tất cả các nhà quyền quý, các mặc khách tao nhân xa gần đến dự; và yêu cầu mỗi người làm một bài tự ngay bữa tiệc.

Vương Bột lúc bấy giờ, tuổi vừa 15 đến 16. Hay tin ấy, nhưng vì đường sá xa xôi có mấy trăm dặm, không đến họp được, lấy làm tiếc. Một ông già khuyên chàng cứ sửa soạn thuyền buồm, tự nhiên sẽ có gió thổi. Quả nhiên đêm đó có gió lớn. Vương cho thuyền khởi hành, và hôm sau tới Đằng Vương các vừa kịp lúc vào tiệc. Và một cuộc thi tài văn học xảy ra, bài Đằng Vương Các Tự đã xuất sắc đoạt giải."

Hết giải thích.

Tuy nhiên sau khi nói như vậy, lão lập tức nhận được phản bác không đồng ý của người bên cạnh. Nam tử hơn ba mươi tuổi đang dựa vào bàn viết ở cách đó không xa nhíu mày, nói:

- Tài văn chương là tốt nhưng chỉ có điều hơi than thở, lập luận không đủ chắc.

Nếu chỉ có vương đạo chính khí đã có thể hưng quốc an bang … Ừ, tuy rằng cũng không phải là không hề có đạo lý, nhưng cứ như vậy thì, … Niên Công, chúng ta đang làm cái gì?

- Y mới hơn hai mươi, có tài văn chương là đủ rồi. Huống chi hưng quốc an bang vốn cũng nên lấy vương đạo là việc chính. Nói như vậy cũng không sai, ha ha … Chu Hải ngươi cần gì phải để ý.

Lão già được gọi là Niên Công cười cười.

Hòa thượng đang ngồi uống trà trước cửa sổ bên kia ngẩng đầu lên, nói:

- Nếu xét về tài văn chương có lẽ có thể sánh vai với Chu Mỹ Thành, tuy nhiên … Sợ là vẫn không thể so sánh với người sáng tác "Nhất dạ ngư long vũ" đang tới đây nhỉ …

- Đó là dị nhân, không cần lấy ra so sánh.

- Giải thích, "Nhất dạ ngư long vũ" là một câu trong bài "Thanh Ngọc Án" của Tân Khí Tật. Hết giải thích.

Nam tử hơn ba mươi tuổi nói. Hòa thượng bên cửa sổ cười ha hả, gật đầu.

Trong mấy người này, người đàn ông trung niên khoảng bốn mươi tuổi có bộ dạng đôn hậu nhưng xem ra lại tương đối trầm mặc ít lời, mặc dù cũng nghe mấy người nói chuyện nhưng vẫn không tham dự vào. Thế nhưng nếu đưa ra bên ngoài, mấy người ngồi đây cũng đều có chút danh tiếng, thậm chí ở không ít địa phương còn có thể dọa người.

Lão già họ Nghiêu được xưng là Niên Công tên là Nghiêu Tổ Niên, khi còn trẻ từng là phụ tá của Tần Tự Nguyên. Lão có học thức uyên bác, tuy rằng lúc trước vẫn đi theo Tần Tự Nguyên nhưng trong quan trường và văn đàn đều có danh tiếng khá lớn. Sau khi Tần Tự Nguyên từ quan, ông vốn vẫn có thể cho lão một tiền đồ, thậm chí bản thân danh tiếng của lão cũng đủ để đi theo bất cứ kẻ nào, nhưng kể từ sau Hắc Thủy Chi Minh thì tâm tư công danh lợi lộc của lão đã phai nhạt. Lần này chỉ khi Tần Tự Nguyên phục chức, lão mới trở lại đây hỗ trợ làm việc.

- Giải thích, Hắc Thủy Chi Minh tức là hòa ước Hắc Thủy. Theo suy luận của dịch giả thì đây chính là Hòa ước Thiền Uyên.
Nếu theo đúng tiến trình lịch sử thì Hòa ước Thiền Uyên diễn ra ở triều Tống.
Mà Ninh Nghị xuyên việt tới triều Vũ cũng tương đương với niên đại của triều Tống trong thực tế. Các nhân vật của triều Vũ cũng chính là người của triều Tống trong thực tế. Có lẽ tác giả sửa Hòa ước Thiền Uyên thành Hòa ước Hắc Thủy để phù hợp với tình tiết trong truyện.
Hết giải thích.

Nam nhân khoảng bốn mươi tuổi tên là Kỷ Khôn. Y vốn là tôi tớ mà Tần Tự Nguyên thu nhận khi còn trẻ, sau đó theo Tần Tự Nguyên đọc sách, biết chữ, trở thành một trong mấy đệ tử ban đầu của Tần Tự Nguyên. Chỉ có điều người này không phải là quá am hiểu thơ từ văn chương mà luôn thiết thực làm việc và bố trí người khác làm việc. Thoạt nhìn tuy rằng bộ dạng đôn hậu, thậm chí có chút chất phác nhưng trên thực tế khi Tần Tự Nguyên quản lý Lại bộ, không ít người đều đã lĩnh giáo lòng lang dạ sói của người này. Năm xưa khi Tần Tự Nguyên bãi quan, ông không hy vọng y đi theo tới Giang Ninh để suy sụp thành một quản gia nên để y theo Mật Trinh Ti lên phương bắc. Sau khi Tần Tự Nguyên khôi phục, y mới trở về từ nước Liêu, xem ra cũng không có biến đổi quá lớn mà chỉ càng thêm trầm mặc hơn so với trước kia.

Nam tử khoảng ba mươi tuổi vốn cũng là đệ tử của Tần Tự Nguyên, họ Thành tên Phóng, tự là Chu Hải. Gã theo Tần Tự Nguyên học tập không lâu, chỉ có điều tính cách khá hận đời, rất có tài danh ở phủ Đại Danh. Ở kinh thành cũng có một số người biết gã. Những năm còn trẻ, gã cũng từng làm những bài thơ từ hay để tham gia lôi đài đấu với người khác ở hội văn nhân, cũng đã từng được làm khách trong màn của hoa khôi, thỉnh thoảng danh tiếng cũng từng xuất hiện trong tầm mắt của một số người. Chỉ có điều hiện tại, ở bất kể quan trường hay văn đàn thì gã đều không có thành tích quá lớn, mà chí hướng của gã cũng không phải ở đó. Sau khi Tần Tự Nguyên khôi phục liền kêu gã tới, gã liền đến đây.

Về phần hòa thượng kia mới chính thức được cho là đại danh lừng lẫy ở kinh thành. Người này có pháp danh Giác Minh, vốn là con trai của một Quận vương. Khi tuổi trẻ, dung mạo anh tuấn, tài hoa hơn người, sau đó lại quy y xuất gia khiến kinh thành chấn động một thời. Mặc dù tài học của y không uyên bác bằng Nghiêu Tổ Niên nhưng tài hoa thơ văn lại hơn hẳn ba người còn lại. Bởi vì y có thân phận xuất gia nên trong kinh thành không ai xếp y vào trong tứ đại tài tử nhưng thanh danh của y cũng không kém so với đám người Chu Bang Ngạn. Giác Minh thiền sư này tuy rằng xuất gia nhưng cũng không khổ tu mà là giao du rộng rãi, thích kết giao bằng hữu. Lúc này ở Hữu tướng phủ, y không phải là thân phận phụ tá mà là tính chất kết bạn.

Chiều nay Tần Tự Nguyên cũng không ở trong phủ. Mấy người hàn huyên một hồi thì có tôi tớ đi tới báo cáo sự tình với Kỷ Khôn. Kỷ Khôn đi ra ngoài một lát liền tươi cười mang theo một người đi vào. Nghiêu Tổ Niên nhìn thoáng qua lập tức mỉm cười:

- Bất Nhị, suýt nữa thì không nhận ra ngươi.
Bạn cần đăng nhập để bình luận