Shogun Tướng Quân

Chương 7

Toda Hiromatsu, Chúa tể của tỉnh Sagami và Kozuke, vị tướng và cố vấn thân tín nhất của Toranaga, tổng tư lệnh tất cả các đạo quân, bước xuống ván cầu, lên bến một mình. Ông cao so với người Nhật, xấp xỉ 60 feet , giống như một con bò mộng cường tráng. Chiếc kimono nhà binh bằng lụa nâu thẳng tắp với huy hiệu biểu tượng của Toranaga - ba cành tre nhỏ đan vào nhau. Ông mặc áo giáp che ngực bóng loáng và giáp che cánh tay bằng thép. Ở thắt lưng chỉ có một thanh kiếm ngắn. Thanh kia, thanh kiếm để chém, ông cầm lăm lăm trong tay. Ông sẵn sàng rút nó ra tức thì để bảo vệ Chúa của mình. Đó là thói quen từ khi ông mười bảy tuổi.
Không một người nào, kể cả Taiko, có thể làm ông thay đổi thói quen đó.
Một năm trước đây, khi Taiko chết, Hiromatsu trở thành chư hầu của Toranaga. Toranaga đã cho ông Sagami và Kozuke, hai trong số tám tỉnh của mình, để cai trị, mỗi năm được năm trăm nghìn Koku và vẫn để ông giữ nguyên thói quen của mình - Hiromatsu giết người rất giỏi.
Lúc này trên bãi biển đầy dân làng - đàn ông, đàn bà, trẻ con - tất cả đều quỳ, đầu cúi thấp. Samurai xếp thành hàng nghiêm chỉnh, ở phía trước. Yabu đứng ở hàng đầu, cùng những cận vệ của mình.
Nếu Yabu là một phụ nữ hoặc một người yếu đuối hơn, hẳn lão phải đấm ngực than vãn hoặc vò đầu, bứt tai. Trường hợp này thật là quá sức. Toda Hiromatsu lừng lẫy tiếng tăm có mặt ở đây, vào ngày này, có nghĩa là Yabu đã bị phản bội - hoặc ở Yedo do một người trong gia đình lão, hoặc ở Anjiro này, do Omi, một người của Omi, hoặc những người trong dân làng, một kẻ nào đó bất tuân lệnh lão. Một kẻ thù nào đó đã lợi đụng mối quan tâm của lão đối với con tàu.
Lão quỳ xuống và tất cả các Samurai của lão làm theo, lão nguyền rủa con tàu và tất cả mọi người đi trên con tàu ấy.
"À, Yabu Sama", lão nghe Hiromatsu nói, và thấy ông này quỳ trên tấm chiếu đã trải sẵn để đáp lễ. Nhưng độ sâu của cái chào ấy không đúng lẽ, bởi vậy lão biết, lão đang ở trong tình trạng cực kỳ nguy hiểm.
Lão thấy viên tướng ngồi trên gót chân. Quả Đấm Sắt, lão đã từng nghe nói. Chỉ có Toranaga hoặc một trong ba cố vấn của ông được đặc quyền cắm cờ Toranaga. Tại sao lại phái một vị tướng quan trọng như vậy để bắt quả tang mình rời khỏi Yedo?
"Ngài đã ban cho tôi niềm vinh dự là đã đến một trong những làng nghèo nàn của tôi, thưa Hiromatsu Sama", lão nói.
"Chủ của ta ra lệnh cho ta đến đây", Hirornatsu nổi tiếng là một người ăn nói thẳng thừng. Ông không có sự khéo léo láu lỉnh gì hết, chỉ có một niềm tin tuyệt dối vào chủ của mình.
"Tôi rất vinh dự và sung sướng", Yabu nói.
"Tôi phải vội vã từ Yedo tới đây vì cái tàu của bọn rợ đó."
"Lãnh chúa Toranaga đã mời tất cả Daimyo thân hữu đợi ở Yedo cho đến khi Người từ Osaka trở về."
"Chúa công của chúng ta ra sao? Tôi hi vọng mọi chuyện đều tốt đẹp với Người chứ ạ?"
"Lãnh chúa Toranaga càng sớm yên ổn trở về lâu đài của người ở Yedo chừng nào càng hay chừng nấy. Cuộc đụng độ với Ishido càng mở màn sớm chừng nào và chúng ta dẫn quân cắt một con đường trở lại lâu đài Osaka, đốt nó thành tro bụi sớm chừng nào tất chừng ấy."
Quai hàm ông già đỏ lên khi nỗi lo lắng của ông cho Toranaga càng tăng. Ông ghét phải xa cách Chúa của mình.
Taiko đã xây dựng lâu đài Osaka vững chắc không thể phá nổi. Nó là lâu đài vĩ đại nhất trong toàn đế quốc với những pháo đài, hào rãnh, tháp canh, cầu và một khoảng rộng cho tám vạn quân lính ở bên trong tường thành và xung quanh những bức tường là thành phố khổng lồ, là những đạo quân khác, cũng có kỷ luật như vậy, được vũ trang như vậy, tất cả đều là những người ủng hộ cuồng tín của Yaemon, công tử thừa kế.
"Tôi đã thưa với Người hàng chục lần rằng, có điên mới đưa mình vào vòng quyền lực của Ishido. Mất trí."
"Lãnh chúa Toranaga phải đi, đúng không? Người không còn con đường nào khác".
Taiko đã ra lệnh cho Hội đồng Nhiếp chính trị vì dưới danh nghĩa của Yemon, phải họp trong mười ngày, ít nhất là hai lần trong một năm, và bao giờ cũng phải ở trong lâu đài Osaka và mang theo tối đa năm trăm tùy tùng vào trong thành. Và tất cả các Daimyo khác cũng có nhiệm vụ một năm hai lần phải đến thăm lâu đài cùng với gia đình của họ, để tỏ lòng kính trọng đối với người thừa kế. Như vậy, tất cả đều bị kiểm soát, mỗi năm tất cả đều không được bảo vệ trong một thời gian.
"Cuộc họp đã ấn định, đúng không? Nếu Người không đi, như vậy là phản bội?"
"Phản bội ai?" Hiromatsu càng đỏ mặt lên.
"Ishido đang cố cô lập chủ của chúng ta. Nếu tôi nắm được Ishido trong tầm tay của mình, như ông ấy hiện nay đang nắm Lãnh chúa Toranaga, tôi sẽ không do dự một giây - dù nguy hiểm đến thế nào chăng nữa, đầu của ông ta đã lìa khỏi cổ từ lâu, và linh hồn của ông ấy phải đang được tái sinh."
Vị tướng bất giác vặn bao kiếm bao năm thân thiết đang cầm trong tay trái. Bàn tay phải gân guốc, chai sạn để sẵn trong lòng. Ông ngắm nghía con tàu Erasmus.
"Đại bác đâu?"
"Tôi cho đem lên bờ, cho an toàn. Ngài Toranaga liệu có thoả hiệp một lần nữa với Ishido không?"
"Khi ta rời Osaka tất cả đều yên tĩnh. Hội đồng sẽ họp trong ba ngày nữa."
"Liệu sự mâu thuẫn có trở nên công khai không?"
"Ta thích nó công khai. Nhưng Chúa công của ta ư? Nếu Người muốn thỏa hiệp, Người sẽ thỏa hiệp."
Hiromatsu nhìn lại Yabu.
"Người ra lệnh cho tất cả Daimyo liên minh đợi Người ở Yedo Cho đến khi Người trở về. Đây khôrg phải là Yedo."
"Vâng. Tôi cảm thấy con tàu này đủ quan trọng đối với sự nghiệp của chúng ta, nên cần phải điều tra nó ngay."
"Không cần, Yabu Sama ạ. Đáng lẽ ra ông nên tự tin hơn. Không một chuyện gì xảy ra mà không được chủ ta biết. Đáng lẽ Người đã sai người nào đó đi điều tra. Người ấy là ta. Ông ở đây được bao lâu rồi?"
"Một ngày và một đêm."
"Vậy là hai ngày từ Yedo đến?"
"Vâng."
"Ông đến rất nhanh. Ông đáng được khen ngợi."
Để tranh thủ thời giản, Yabu bắt đầu kể cho Hiromatsu về chuyến đi bắt buộc của mình. Nhưng trí óc lão còn để vào những vấn đề cốt tử hơn. Ai là gián điệp? Làm sao Toranaga có được thông tin về con tàu cũng nhanh như lão? Và ai đã bảo cho Toranaga về chuyến đi của lão? Bây giờ lão biết ứng xử ra sao để đương đầu với Hiromatsu.
Hiromatsu nghe hết, rồi nói như đinh đóng cột:
"Lãnh chúa Toranaga tịch thu con tàu và tất cả những thứ bên trong của nó."
Một sự yên lặng choáng váng tràn ngập bãi biển. Đây là Izu, thái ấp của Yabu. Toranaga không có quyền gì ở đây. Hiromatsu cũng chẳng có quyền ra lệnh. Yabu nắm chặt đốc kiếm.
Hiromatsu chờ đợi với một sự bình tĩnh thành thục, ông làm đúng như Toranaga ra lệnh và giờ đây ông đã lâm cuộc. Rõ ràng là giết hay bị giết.
Yabu lúc này cũng biết mình đã lâm cuộc. Không còn đợi chờ gì nữa. Nếu lão từ chối không trao con tàu thì lão sẽ phải giết Hiromatsu - Quả Đấm Sất. Bởi vì Hiromatsu - Quả Đấm Sắt không bao giờ chịu đi không. Có lẽ có khoảng hai trăm Samurai có hạng trên thuyền đang buông neo ở bến. Họ cũng phải chết. Lão có thể mời họ lên bờ, chiêu đãi họ trong vòng vài tiếng đồng hồ, lão sẽ có đủ Samurai ở Anjiro để đè bẹp tất cả bọn họ, bởi vì lão là bậc thầy của phục kích.
Nhưng như vậy sẽ khiến Toranaga phái quân đánh Izu. Mình sẽ bị nuốt chửng, lão tự nhủ, trừ phi Ishido đến cứu mình. Mà tại sao Ishido lại cứu mình, khi kẻ thù của mình, Ika là họ hàng và cũng muốn chiếm Izu này cho chính hắn? Giết Hiromatsu sẽ mở ra sự thù địch, bởi vì Toranaga vì danh dự sẽ phải điều quân đánh mình, sẽ thúc đẩy bàn tay Ishido, và Izu sẽ là bãi chiến trường đầu tiên.
Còn súng của ta thì sao? Những khẩu súng đẹp và kế hoạch đẹp của ta? Ta sẽ mất một dịp cốt tử vĩnh viễn nếu phải trao chúng cho Toranaga.
Tay lão đặt trên đốc kiếm Mura Sama, lão cảm thấy máu rần rật chảy trong cánh tay cầm kiếm thôi thúc lão đến chóa mắt. Lão bỏ ngay cái khả năng không nhắc tới những khẩu hỏa mai. Nếu tin tức về con tàu đã bị phản bội thì chắc chắn là những hàng hóa của nó cũng bị phản bội như vậy.
Nhưng làm sao Toranaga nhận được tin sớm như vậy? Bằng chim đưa thư? Đó là câu trả lời duy nhất. Từ Yedo hay từ đây? Ở đây ai có chim đưa thư? Tại sao mình lại không có dịch vụ như vậy? Đó là lỗi của Zukimoto - anh ta nên nghĩ tới điều đó mới phải.
Hãy quyết định đi. Chiến tranh hay không chiến tranh? Yabu kêu gọi ác quỷ, các thần, cả các vị thần linh đã có và được nghĩ ra, hãy trừng phạt kẻ đã phản bội lão, cả cha mẹ họ, cả đời đời dòng giống họ. Và lão chấp nhận.
"Lãnh chúa Toranaga không thể tịch thu con tàu bởi vì nó sẽ là món quà tặng. Tôi đã đọc một lá thư. Có phải vậy không Zukimoto?"
"Thưa ngài, vâng."
"Tất nhiên, nếu Lãnh chúa Toranaga muốn coi nó là bị tịch thu, Người có thể coi như vậy. Nhưng nó là món quà tặng." Yabu sung sướng thấy giọng mình nghe có vẻ thực tế.
"Người sẽ vui với món quà này."
"Thay mặt chủ ta, cám ơn ông."
Hiromatsu thán phục tài tiên tri của Toranaga.
Toranaga đoán trước được điều này sẽ xảy ra và sẽ không có đánh nhau.
"Tôi không tin điều đó", Hiromatsu đã nói.
"Không một Daimyo nào lại để quyền lợi của mình bị tước đoạt như vậy. Yabu sẽ không chịu. Tôi cũng không chịu. Ngay cả để cho tướng công nữa, thưa tướng công."
"Nhưng nếu là ông, thì ông đã tuân lệnh và đã nói cho tôi biết về con tàu rồi. Yabu cần phải được vận động, đúng không? Tôi cần sự hung bạo và quỷ quyệt của hắn - hắn vô hiệu hóa Ikaoa Jikkiu và bảo vệ sườn của ta."
Ở đây trên bãi biển, dưới ánh nắng chan hòa, Hiromatsu đã buộc mình cúi chào, bực bội vì cái trò hai mang này.
"Chúa công Toranaga sẽ rất hài lòng vì sự hào phóng của ông."
Yabu theo sát ông:
"Đây không phải là tàu Portugal."
"Vâng. Chúng tôi đã nghe nói."
"Và nó là hải tặc."
Lão thấy con mắt viên tướng bé lại.
"Hả?"
Trong khi lão kể cho viên tướng nghe những điều gã thầy tu nói, Yabu suy nghĩ, nếu như nó mới lạ đối với ngươi cũng như đối với ta, phải chăng điều đó có nghĩa là Toranaga có cùng nguồn thông tin như ta? Nhưng nếu ngươi biết bên trong con tàu có gì, thì tên gián điệp ấy là Omi, hoặc một tên Samurai của anh ta hay một người làng.
"Có rất nhiều vải vóc. Một số báu vật. Hỏa mai. Thuốc súng và đạn."
Hiromatsu do dự một lúc. Rồi ông nói:" Vải vóc lụa là Trung Quốc?"
"Không, thưa Hiromatsu-san", lão nói, dùng chữ.
"San." Họ cùng là Daimyo như nhau. Nhưng bây giờ lão đã.
"Cho" con tàu một cách hào phóng như vậy, lão cảm thấy đủ an toàn để dùng một từ ít kính trọng hơn. Lão hài lòng nhận thấy từ đó không phải không được con người nhiều tuổi hơn chú ý. Ta là Daimyo của Izu, thề có mặt trời, mặt trăng và các vì sao!
"Nó rất bình thường, vải nặng dày, hoàn toàn vô dụng đối với chúng ta", lão nói.
"Tôi đã cho mang lên bờ tất cả những gì đáng quý."
"Tốt. Đem tất cả những thứ đó lên tàu của ta."
"Cái gì?" Ruột gan Yabu sốt lên.
"Tất cả. Ngay lập tức."
"Bây giờ?"
"Vâng. Hết sức xin lỗi, nhưng chắc ông hiểu rằng tôi muốn trở về Osaka càng sớm càng tốt."
"Vâng, nhưng - nhưng liệu có chỗ cho tất cả mọi thứ không?"
"Đưa đại bác lại tàu của bọn rợ và niêm phong lại. Trong ba ngày nữa, sẽ có thuyền tới dong về Yedo. Còn hỏa mai, thuốc súng, đạn thì có…"
Hiromatsu dừng lại, tránh cái bẫy mà ông đột nhiên nhận ra, đang giăng cho ông.
"Có đủ chỗ cho năm trăm hỏa mai" - Toranaga đã nói với ông.
"Và tất cả thuốc súng, hai mươi ngàn lublun tiền Spain bạc đưa lên thuyền. Để lại đại bác trên boong tàu và vải vóc ở các khoang. Để cho Yabu muốn nói gì thì nói, còn ông chỉ ra lệnh, đừng để hắn có thời gian suy nghĩ.
Nhưng đừng có bực bội hay nôn nóng với hắn. Ta cần hắn, nhưng ta muốn lấy súng ống và con tàu đó. Cẩn thận, đừng để hắn giương bẫy cho ông bộc lộ chính xác hàng hóa gì, không được để hắn khám phá ra điệp viên của ta."
Hiromatsu rủa mình. không đủ khả năng đóng những vai trò cần thiết đó.
"Còn cần bao nhiêu chỗ?" Lát sau ông nói.
"Có lẽ ông nên nói cho tôi biết. Mà hàng hóa gì nhỉ? Bao nhiêu hỏa mai, đạn dược..? Bạc là bạc thỏi hay là đồng tiền... Bạc hay vàng?"
"Zukimoto!"
"Dạ thưa Yabu Sama."
"Đưa danh sách những thứ trong tàu." Ta sẽ liệu với nhà ngươi sau, Yabu nghĩ.
Zukimoto vội vã đi.
"Chắc hẳn ngài mệt, Hiromatsu-san Có lẽ dùng một chút trà? Chỗ nghỉ ngơi đã được chuẩn bị sẵn cho ngài. Tắm chắc là không xứng đáng với ngài, nhưng có lẽ cũng làm ngài sảng khoái đôi chút."
"Cám ơn ông. Ông chu đáo quá. Tắm và trà là tuyệt vời. Sau đó, trước tiên, hãy cho tôi biết tất cả mọi chuyện xảy ra từ khi con tàu tới đây."
Yabu kể cho ông nghe sự thật, trừ cái đoạn cô kỹ nữ và chú bé, không cần thiết. Theo lệnh của Yabu, Omi kể lại câu chuyện, trừ những cuộc nói chuyện riêng với Yabu. Mura kể lại câu chuyện của mình, trừ cái đoạn dương vật của Anjin cứng lên mà Mura lập luận là hay thì hay thật, nhưng có thể làm phật ý Hiromatsu. Ở tuổi ông ta, cái của ông ta có thể không được tốt đẹp lắm nữa.
Hiromatsu nhìn vệt khói vẫn còn bốc lên từ giàn thiêu.
"Còn bao nhiêu tên cướp biển?"
"Thưa ngài, mười, kể cả tên thủ lĩnh", Omi nói.
"Tên thủ lĩnh bây giờ ở đâu?"
"Ở nhà Mura."
"Hắn đã làm gì? Việc đầu tiên hắn làm khi bước ra khỏi hầm là gì?"
"Hắn đi thẳng vào nhà tắm, thưa đại nhân", Mura nói nhanh.
"Thưa đại nhân, bây giờ hắn đang ngủ như chết."
"Lần này, ngươi không phải khiêng hắn nữa chứ?"
"Thưa Chúa công, không."
"Tôi cũng không. Không bao giờ. Bọn rợ rất kỳ."
Hiromatsu lại suy nghĩ về con tàu.
"Ai sẽ giám sát việc bốc dỡ?"
"Cháu tôi, Omi-san."
"Tốt, Omi-san, ta muốn lên đường trước lúc hoàng hôn. Thuyền trưởng của ta sẽ giúp anh làm rất nhanh, trong thời gian tàn ba nén nhang." Đơn vị thời gian là khoảng thời gian cháy hết một nén nhang tiêu chuẩn, chừng một giờ một nén.
"Thưa Chúa công, vâng."
"Tại sao không đi cùng ta tới Osaka, Yabu-san?" - Hiromatsu nói ý như thể đó là một ý nghĩ đến bất chợt.
"Lãnh chúa Toranaga sẽ sung sướng lắm, nếu người nhận được những thứ này từ chính tay ông. Chính ông. Xin mời ông, còn chỗ."
Khi Yabu bắt đầu từ chối, ông cho phép lão cứ tiếp tục một thời gian, như Toranaga đã ra lệnh.
"Tôi xin mời ông. Nhân danh Lãnh chúa Toranaga, tôi xin mời. Sự hào phóng của ông đáng được khen thưởng."
Với cái đầu ta và những đất đai của ta? Yabu tự hỏi một cách cay đắng, biết bây giờ mình không thể làm gì được nữa, chỉ còn cách chấp nhận một cách biết ơn.
"Xin cảm ơn. Tôi lấy làm vinh dự."
"Tốt rồi tất cả sẽ tốt đẹp", Quả Đấm Sắt nói, rõ ràng là nhẹ nhõm trong người.
"Bây giờ uống trà. Và tắm."
Yabu lịch sự dẫn đường ngược lên đồi đến nhà Omi. Ông già được tắm rửa, kỳ cọ, rồi ông nằm khoan khoái trong hơi nước nóng. Sau đó, đôi bàn tay-của Suwo đã làm ông tươi mát trở lại. Một chút cơm và cá tươi, dưa muối. Trà uống bằng chén sang trọng, một giấc ngủ ngắn không mộng mị.
Cháy tàn ba nén nhang, cửa shoji mở. Vệ sĩ biết tốt nhất là không nên vào đường đột. Hiromatsu đã thức, thanh kiếm rút ra một nửa và sẵn sàng.
"Yabu Sama đang đợi ở ngoài, thưa đại nhân. Ngài nói tàu đã chất xong hàng hóa."
"Rất tốt."
Hiromatsu ra ngoài hiên, đại tiện vào một cái thùng.
"Thuộc hạ của ông rất tháo vát, Yabu Sama."
"Thuộc hạ của ông giúp đỡ, Hiromatsu-san Họ còn hơn cả sự tháo vát nữa."
Phải, thề có mặt trời, nên như vậy, Hiromatsu nghĩ. Rồi nói một cách vui vẻ:
"Không gì sung sướng bằng đang mót mà tè một bãi, nhỉ? Nó làm mình thấy trẻ lại. Ở tuổi tôi người ta cần cảm thấy mình trẻ lại." Ông thoải mái vạch khố, đợi Yabu đưa ra một nhận xét lịch sự đồng ý, nhưng không có gì hết. Sự bực bội của ông tăng lên, nhưng ông cố dẹp nó.
"Tên thủ lĩnh cướp biển được đưa tới tàu của tôi chưa?"
"Cái gì ạ?"
"Ông rộng lượng tặng Chúa công con tàu và những thứ ở trong đó. Thủy thủ đoàn là những thứ bên trong. Vậy tôi sẽ đem tên thủ lĩnh cướp biển đi Osaka. Lãnh chúa Toranaga muốn thấy hắn. Tất nhiên những tên còn lại, ông muốn làm gì thì làm. Nhưng trong thời gian ông đi vắng, xin hãy làm cho những tuỳ tùng của ông nhận thức được rằng bọn rợ là tài sản của chủ tôi và cả chín người đều phải mạnh khỏe, sống nguyên vẹn và ở tại đây khi chúng tôi cần tới họ."
Yabu vội vã tới cầu tàu, nơi Omi đang đứng ở đó.
Trước đó, khi để Hiromatsu tắm, lão đã đi lên con đường uốn qua nghĩa địa. Ở đó, lão đã cúi chào về phía giàn thiêu và bước tiếp, dọc theo những khoảnh ruộng lúa mỳ và vườn cây quả mọc trên một đồi nhỏ, cao hơn mặt làng.
Một miếu thờ thần nhỏ nhắn canh giữ chốn êm đềm này. Một cây cổ thụ tỏa bóng mát và sự thanh thản. Lão tới đó cho nguôi cơn giận và suy tư.
Lão không dám đến gần con tàu, gần Omi hoặc tùy tùng của lão, vì lão biết lão sẽ có thể ra lệnh cho hầu hết, nếu không phải là tất cả phải mổ bụng tự tử. Như vậy là một sự lãng phí và lý ra lão đã giết cả làng, như vậy là điên rồ, - người nông dân đánh cá trồng lúa, cung cấp của cải, sự giàu có cho Samurai.
Trong khi lão ngồi đó, tức giận một mình và cố gắng làm cho đầu óc minh mẫn thì mặt trời đã xua đi những đám sương mù của biển. Những đám mây bao phủ những dãy núi xa phía Tây đã tách ra trong giây lát, và lão đã nhìn thấy cái đẹp của những đỉnh núi tuyết phủ vút lên. Cảnh tượng này làm lão yên lòng, lão bắt đầu thư thái để suy nghĩ và hoạch định.
Phải tung gián điệp của mình tìm cho ra tên gián điệp, lão tự nhủ. Tất cả những điều Hiromatsu nói đều chưa đủ để xác định được kẻ phản bội ở đây hay ở Yedo. Ở Osaka mình có những người bạn có thế lực, Chúa Ishido cũng ở trong số đó. Có lẽ, một trong số họ có thể đánh hơi được kẻ thù.
Nhưng hãy viết ngay một lá thư riêng cho vợ, ngộ nhỡ tên chỉ điểm có ở đó chăng? Còn Omi thì sao? Giao cho hắn trách nhiệm tìm ra tên chỉ điểm ở đây. Có phải chính hắn là tên chỉ điểm không? Có vẻ không phải vậy, nhưng cũng không hẳn là không thể. Có khả năng sự phản bội bắt đầu từ Yedo.
Một vấn đề thời gian. Nếu Toranaga ở Osaka được tin về con tàu khi nó tới, thì Hiromatsu, phải đã có mặt ở đây trước rồi. Mình có những tên chỉ điểm ở Yedo. Hãy để họ chứng minh khả năng của họ.
Còn bọn rợ thì sao? Bây giờ chúng là món lợi duy nhất còn lại của ngươi. Ngươi có thể sử dụng chúng như thế nào? Khoan đã, Omi chẳng đã cho ngươi một câu trả lời đấy ư? Ngươi có thể dùng tri thức về biển của chúng và những con tàu để đổi chác với Toranaga lấy súng. Nhỉ?
Một khả năng nữa: trở thành chư hầu của Toranaga, hoàn toàn trao cho ông ta kế hoạch của ngươi. Yêu cầu ông ta cho ngươi chỉ huy đạo quân cầm súng - để đem lại vinh quang cho ông ta, nhưng một chư hầu không bao giờ nên mong đợi ở chủ của mình ân thưởng cho công lao hay thậm chí thừa nhận chúng. Phục vụ là nhiệm vụ của Samurai, Samurai là bất tử. Đó là con đường hay nhất, con đường hay duy nhất, Yabu nghĩ. Mình có thể thực sự làm chư hầu của ông ta được không? Hay của Ishido?
Không, điều đó không thể được nghĩ đến. Đồng minh, được. Chư hầu, không.
Tốt. Vậy thì bọn rợ cuối cùng là vật quý. Omi lại đúng. Lão cảm thấy bình tĩnh hơn, khi thời gian đã tới, một người đem tin báo tàu đã chất xong, lão đến chỗ Hiromatsu và thấy rằng bây giờ lão đã mất cả bọn rợ. Lão giận sôi người khi lão tới cầu tàu.
"Omi-san!"
"Thưa Yabu Sama, có?"
"Mang tên thủ lĩnh của bọn rợ đến đây. Ta sẽ đưa nó đi Osaka. Còn những người khác, để ý trông nom họ cẩn thận trong khi ta đi vắng. Ta muốn họ khoẻ mạnh và biết cách cư xử. Dùng cái hầm nếu buộc phải như vậy."
Từ khi con thuyền galleon tới, đầu óc Omi luôn xao động và đầy lo ngại cho sự an toàn của Yabu.
"Thưa Chúa công, cho phép con đi cùng, con có thể có ích."
"Không, bây giờ ta muốn con trông nom bọn rợ."
"Xin Chúa công, có lẽ bằng một cách nhỏ mọn nào đó, con có thể đền đáp lại tấm lòng của Chúa công đối với con."
"Không cần thiết", Yabu nói, tử tế hơn là lão muốn biểu lộ. Lão nhớ đã tăng lương của Omi lên ba ngàn Koku và đã mở rộng thái ấp của anh ta vì những nén vàng bạc và súng ống. Những cái đó bây giờ đã tiêu tan, nhưng lão đã thấy chàng trai trẻ rất quan tâm và điều đó làm lão ấm lòng lên đôi chút.
Với những chư hầu như thế này, ta sẽ tạo một đế chế, lão tự hứa với mình, Omi sẽ chỉ huy một trong những đơn vị đó khi ta lấy lại súng của ta." Khi nào chiến tranh xảy ra, ta sẽ có công việc rất quan trọng cho cháu, Omi-san. Thôi, bây giờ hãy đi đem tên rợ đến."
Omi mang theo bốn người gác. Và Mura làm phiên dịch.
Blackthorne bị lôi ra khỏi giấc ngủ. Phải mất một phút anh mới định thần lại được. Khi lớp sương mù quang, Omi đang nhìn xuống anh chăm chăm.
Một Samurai lôi cái mền ra khỏi người anh, người khác lay cho anh tỉnh, hai người khiêng những đòn tre trông gớm ghiếc. Mura có một cuộn dây thừng ngắn.
Mura quỳ và chào:
"Kounichi wa".
"Kounichi wa" Blackthorne cũng quỳ đầu gối xuống, mặc dù đang trần truồng, anh vẫn chào lại với cùng một sự lễ độ như vậy.
Vấn đề chỉ là lịch sự thôi, Blackthorne tự nhủ. Đó là phong tục của họ, họ chào để tỏ ra có giáo dục vì vậy chẳng có gì phải xấu hổ cả. Sự trần truồng cũng không được người ta để ý và cũng là phong tục của họ, và trần truồng cũng chằng có gì phải xấu hổ.
"Anjin - mời mặc quần áo", Mura nói.
Anjin? À, bây giờ mình nhớ rồi. Gã thầy tu nói, họ không thể phát âm được tên mình, vì vậy họ cho mình cái tên Anjin-san - ông hoa tiêu - khi nào mình xứng đáng.
Đừng nhìn Omi, anh tự dặn mình. Đừng vội nhìn. Đừng nhớ lại quảng trường làng và Omi và Croocq và Pieterzoon. Mỗi lúc một thứ thôi. Đó là điều mình sẽ làm. Đó là điều mình đã thề trước Chúa phải làm.
Mỗi lúc một thứ thôi. Thề có đức Chúa cha, trả thù là việc của ta. Blackthorne thấy quần áo của mình lại được giặt, anh cầu nguyện cho người nào đã làm việc ấy. Anh bò ra khỏi quần áo của mình ở trong nhà tắm như thể bị dịch.
Anh đã nói họ kỳ lưng cho mình ba lần bằng bọt bể thô nhám nhất và bằng đá kỳ. Nhưng anh vẫn còn cảm thấy những giọt nước tè nóng bỏng. Anh rời mắt khỏi Mura và nhìn Omi. Anh thấy một nỗi sung sướng đến điên dại khi biết kẻ thù của anh vẫn còn sống và ở gần kề.
Anh cúi chào như anh từng thấy người ta chào.
"Kounichi wa, Omi-san", anh nói. Nói cái ngôn ngữ của họ cũng chẳng có gì là xấu hổ, nói.
"Chào" hay mình chào trước như phong tục của họ, cũng chẳng có gì là xấu hổ.
Omi cúi chào lại.
Blackthorne để ý thấy cái chào không hoàn toàn bình đẳng, nhưng lúc này thế là đủ.
"Kounichi wa, Anjin", Omi nói.
Giọng nói lịch sự nhưng chưa đủ:
"Anjin-san", Blackthorne nhìn thẳng vào gã ta.
Ý chí của hai người xoắn bện vào nhau. Omi như đang trong ván bài. Mình có biết cách cư xử hay không?
"Kounichi wa, Anjin-san", cuối cùng Omi nói, thoáng một nụ cười.
Blackthorne mặc nhanh quần áo.
Anh mặc quần rộng, xi líp, bít tất, áo sơ mi và áo khoác, mái tóc dài của anh buộc thành đuôi gọn gàng, râu đã được tỉa bằng kéo người thợ cắt tóc cho anh mượn.
"Hai, Omi-san", Blackthorne hỏi khi anh mặc xong quần áo. Cảm thấy dễ chịu hơn nhưng rất cảnh giác, chỉ mong mình có nhiều từ hơn để dùng.
"Làm ơn, tay", Mura nói.
Blackthorne không hiểu và dùng cử chỉ để nói lên điều đó, Mura giơ hai tay mình ra, làm như trói lại.
"Tay, làm ơn."
"Không." Blackthorne nói trực tiếp với Omi và lắc đầu:
"Điều đó không cần thiết." Anh nói bằng tiếng Anh,
"Không cần thiết chút nào hết, tôi hứa", anh để giọng nói của mình nhẹ nhàng và hợp lý rồi nói thêm giọng gay gắt bắt chước Omi.
"Wakari masu ka, Omi san? Ông có hiểu không?"
Omi cười. Rồi nói,
"Hai, Anjin-san - Wakari matsu." Anh ta quay lưng lại và đi.
Mura và những người khác nhìn anh ta chằm chằm, kinh ngạc. Blackthorne đi theo Omi trong nắng. Đôi ủng của anh đã được đánh bóng. Trước khi anh định đi vào, thì người đầy tớ gái.
"Onna" đã quỳ gối giúp anh." Cám ơn Haku-san." Anh nói, nhớ lại tên của chị ta. Chữ.
"Cám ơn" nói thế nào nhỉ? Anh tự hỏi.
Anh đi qua cổng, Omi đi trước.
Ta đi sau ngươi, cái đồ... Chúa nguyền rủa - khoan nào! Ngươi nhớ ngươi đã từng hứa cái gì không? Mà tại sao lại chửi thề hắn, cả mình nữa? Hắn có chửi thề mình đâu? Chửi thề là dành cho kẻ yếu, bọn ngu. Phải vậy không?
Mỗi lần một chuyện thôi. Mình đi theo anh ta là được rồi. Ngươi biết điều đó rõ ràng. Đừng mắc khuyết điểm gì hết, anh ta biết điều đó rất rõ ràng.
Bốn người Samurai đi kèm hai bên Blackthorne khi anh bước xuống đồi, bến cảng vẫn còn khuất tầm mắt. Mura kín đáo đi sau mười bước. Omi đi đầu.
Bọn họ lại cho mình xuống hầm nữa sao? Anh tự hỏi. Tại sao họ lại muốn trói tay mình? Omi chẳng nói là ngày hôm qua - lạy Chúa, phải chăng đó chỉ là ngày hôm qua...
"Nếu anh cư xử tử tế, anh có thể ra ngoài hầm. Nếu anh cư xử tồi tệ, ngày mai một người nữa sẽ bị đưa ra khỏi hầm. Có lẽ. Và có lẽ nhiều hơn nữa."
Có phải hắn ta nói như vậy không nhỉ?
Mình có cư xử tử tế không? Không hiểu Croocq bây giờ thế nào? Cậu bé còn sống khi họ khiêng tới ngôi nhà nơi đoàn thủy thủ ở lại lần đầu.
Hôm nay Blackthorne cảm thấy khá hơn. Tắm rồi ngủ và thức ăn tươi đã bắt đầu làm anh hồi phục. Anh biết, nếu cẩn thận, được nghỉ ngơi, ngủ và ăn, trong vòng một tháng anh có thể chạy một dặm, bơi một dặm, chỉ huy một tàu chiến và đưa nó đi vòng quanh trái đất.
Đừng nghĩ đến điều đó vội. Bây giờ hãy giữ gìn sức khỏe. Một tháng không nhiều để hi vọng, phải không? Đi bộ xuống đồi và qua làng làm anh mệt. Ngươi đuối hơn là ngươi tưởng... Không. Ngươi khỏe hơn là ngươi tưởng, anh ra lệnh cho mình.
Những cột buồm của con tàu Erasmus vươn cao trên những mái ngói. Tim anh đập rộn ràng. Phía trước mặt, phố lượn theo sườn đồi, trườn xuống quảng trường và kết thúc. Một chiếc kiệu buông rèm ngoài nắng. Bốn người khiêng đóng khố gọn ghẽ ngồi xổm bên cạnh, xỉa răng một cách lơ đãng. Khi nhìn thấy Omi, họ quỳ xuống sát đất.
Omi khẽ gật đầu khi anh ta đi qua, nhưng khi một thiếu nữ ra khỏi cổng tiến tới kiệu, anh ta dừng lại.
Blackthorne nín thở và cũng dừng lại.
Một người đầy tớ gái trẻ chạy ra, giơ chiếc dù xanh để che cho cô gái. Omi cúi chào, cô gái cúi chào, họ nói chuyện vui vẻ với nhau. Vẻ kiêu căng, khệnh khạng đã biến mất khỏi Omi.
Cô gái mặc kimono màu hoa đào, chiếc thắt lưng to màu vàng, đôi dép da màu vàng. Blackthorne thấy cô gái liếc nhìn anh. Rõ ràng cô và Omi đang nói về anh. Anh không biết phải làm gì, vì vậy anh không làm gì hết, chỉ kiên nhẫn đợi, rạng rỡ trong nhan sắc của nàng, sự thanh khiết và ấm áp trong sự hiện diện của nàng.
Anh tự hỏi, không hiểu nàng và Omi có phải là người yêu của nhau không, hay nàng là vợ của Omi? Và anh nghĩ, nàng có phải là thật không?
Omi hỏi nàng điều gì, nàng trả lời, phất chiếc quạt xanh, nó ánh lên và nhảy múa trong nắng. Tiếng cười của nàng, tiếng nhạc và vẻ thanh khiết của nàng. Omi cùng cười rồi anh ta quay gót, rảo bước, lại trở lại là một Samurai.
Blackthorne đi theo. Đôi mắt nàng nhìn anh, và anh nói:
"Konnichi wa."
"Konnichi wa, Anjin-san." Nàng trả lời, giọng nàng làm anh xúc động, nàng cao chừng năm feet và hoàn hảo. Khi nàng khẽ cúi chào, gió lay mảnh lụa bên ngoài để lộ chiếc kimono lót đỏ tươi mà anh thấy khêu gợi lạ lùng.
Mùi hương của cô gái vẫn còn bao phủ lấy anh khi anh rẽ vào góc phố. Anh nhìn thấy cánh cửa nắp hầm và con tàu. Một con thuyền galleon. Cô gái biến khỏi trí óc anh.
Tại sao chỗ để súng của chúng ta lại trống không? Đại bác của chúng ta ở đâu? Và Chúa chứng giám, cái con thuyền galleon khốn kiếp làm gì ở đây và điều gì đã xảy ra trong hầm?
Mỗi lần một thứ thôi.
Trước tiên là tàu Erasmus. Mẩu cột buồm trước đây bị cơn bão tiện đi nhô lên một cách kheo. chịu. Không sao, anh nghĩ. Chúng ta có thể đưa nó ra khơi dễ dàng. Chúng ta có thể tháo neo, gió ban đêm và thủy triều sẽ đưa chúng ta đi lặng lẽ và ngày mai đã ở tít bên kia hải đảo.
Mất nửa ngày để giương buồm dự trữ, thế rồi mọi cánh buồm đều căng phồng lao thẳng ra khơi. Có lẽ là không buông neo, cứ chạy thẳng tới những vùng biển an toàn. Những ai sẽ thành thủy thủ? Mình không thể một mình đưa nó ra khơi được.
Con thuyền khốn kiếp ấy từ đâu tới? Và tại sao nó lại ở đây?
Anh có thể thấy bọn Samurai và các thủy thủ ở dưới bến. Con thuyền sáu mươi mái chèo - mỗi bên ba mươi mái - gọn ghẽ, ngăn nắp, những mái chèo xếp cẩn thận, sẵn sàng lên đường tức khắc. Bất giác anh rùng mình.
Lần cuối cùng anh nhìn thấy một chiếc galleon là ở ngoài khơi Bờ Biển Vàng, đây là tên cũ của Ghana cho đến năm 1957, hai năm về trước, khi hạm đội của anh vượt đại dương, toàn bộ năm chiếc tàu. Đó là một thuyền buôn giàu có, con thuyền Portugal, nó chạy trốn tàu anh, ngược chiều gió. Không đuổi kịp được nó, không bắt được hoặc nhấn chìm được nó.
Blackthorne hiểu rất rõ bờ biển Nam Phi. Anh đã từng là hoa tiêu, là chủ thuyền trong mười năm cho công ty của những lái buôn Barbary - một vùng ở Bắc Phi chạy dài từ Tây Ai Cập tới Đại Tây Dương, London, một công ty liên hợp trang bị cho những lái buôn chiến đấu phong tỏa Spain và buôn bán ở bờ biển Barbary.
Anh đã dẫn tàu tới Tây và Bắc Phi, tới miền Nam tận Lagos, thủ đô và cảng chính của Nigeria, về phía Bắc và Đông, qua eo Gibralta đầy bất trắc - luôn do Spain tuần tra - cho mãi đến tận Salécnô trong vương quốc Náplơ. Địa Trung Hải nguy hiểm đối với tàu bè của Anh và Holland. Chiến thuyền thù địch của Spain và Portugal rất đông, rất mạnh ở đó và tệ hơn nữa, bọn Ottoman, bọn Thổ Nhĩ Kỳ bất trung đầy rẫy ngoài biển với những chiến thuyền và thuyền galleon đốn mạt.
Những chuyến đi đó rất có lợi cho anh, anh đã mua tàu riêng cho mình, một con thuyền hai buồm trọng tải một trăm năm mươi tấn để buôn bán. Nhưng thuyền của anh đã bị đắm và mất hết. Con thuyền không có gió ở hòn đảo Sacdinia - một hòn đảo lớn thứ hai Địa Trung Hải, lúc đó con thuyền galleon Thổ Nhĩ Kỳ tiến ra. Cuộc chiến đấu tàn khốc, và đến khi mặt trời lặn, mũi nhọn của tàu địch đâm vào đuôi tàu của họ, họ phải chạy vát rất nhanh. Anh không bao giờ quên được tiếng thét.
"Al lahhh!" khi bọn hải tặc tràn lên mép tàu của anh. Chúng được vũ trang bằng kiếm và hoả mai. Anh đã tập hợp đồng đội của mình, và cuộc tấn công thứ nhất bị đẩy lùi, nhưng cuộc tấn công thứ hai đã đè bẹp họ và anh đã quyết định thà chết còn hơn bị đưa lên thuyền địch. Anh luôn khiếp sợ bị bắt sống và phải làm nô lệ chèo galleon - chuyện bình thường đối với người đi biển bị bắt.
Khi kho thuốc súng nổ, sự chấn động đã xé rách đáy tàu của anh và làm hư hỏng một phần con thuyền galleon. Trong lúc lộn xộn, anh đã bơi được tới sà-lúp và trốn thoát cùng bốn người trong đoàn thủy thủ. Những người không bơi được tới chỗ anh, anh đành phải từ bỏ họ và anh vẫn còn nhớ những tiếng kêu cứu, gọi tên Chúa của họ.
Nhưng hôm ấy, Chúa đã quay mặt khỏi những con người đó. Bởi vậy họ đã chết hoặc bị bắt làm nô lệ chèo thuyền. Và Chúa đã quay bộ mặt của Người về phía Blackthorne và bốn người. Họ đã tới được Cagliari, Một cảng ở Ý, thủ đô của Sacdinia, trên bờ biển miền Nam. Từ đó họ lần đường về, không một xu dính túi.
Chuyện đó cách đây tám năm. Cũng năm ấy, nạn dịch lại bùng nổ. Dịch, đói và nổi loạn của những người thất nghiệp chết đói. Em trai cùng gia đình đã bị chết. Đứa con trai đầu lòng của anh cũng chết. Nhưng đến mùa đông, nạn dịch hết, anh dễ dàng kiếm được một con tàu mới và ra biển để dựng lại cơ đồ.
Thoạt tiên cho Công ty thương mại Bacbari Anh. Rồi một chuyến đi tới miền Tây Ấn Độ săn người Spain. Sau đó, giàu hơn một chút, anh đi biển cho Kees Veerman, người Holland trong chuyến đi thứ hai, tìm một lối đi Đông Bắc huyền thoại tới Cathay và những hòn đảo Hương liệu của châu Á mà người ta cho là tồn tại ở Biển Băng, phía Bắc của nước Nga Sa hoàng. Họ tìm kiếm trong hai năm rồi Kees Veerman chết ở vùng biển Bắc Cực với tám mươi phần trăm thủy thủ đoàn.
Blackthorne quay trở lại, dẫn những người còn lại về nhà. Rồi, ba năm trước đây, anh đã được Công ty Đông Ấn - Holland mới thành lập đến yêu cầu dẫn đoàn thám hiểm đầu tiên của họ tới Tân Thế Giới.
Họ thì thầm bí mật là đã có được, với tổn phí khổng lồ, một hải trình lậu của Portugal, mà người ta cho là đã tìm được những bí mật của eo Magellan và họ muốn chứng minh điều đó. Tất nhiên lái buôn Holland thích dùng một trong những hoa tiêu của họ hơn, nhưng không một người nào có thể so sánh được về chất lượng với những người Anh đã được Tritiny House độc quyền đào tạo và cái giá trị ghê gớm của hải trình này buộc họ phải đánh bạc với Blackthorne.
Nhưng là một lựa chọn hoàn hảo: anh là một hoa tiêu theo đạo Tin Lành tốt nhất hiện nay, mẹ anh là người Holland và anh nói tiếng Holland thông thạo. Blackthorne đã hăng hái nhận lời và nhận mười lăm phần trăm tổng số tiền lợi tức, và theo phong tục, anh đã long trọng thề trước Chúa, trung thành với Công ty, thề đưa hạm đội đi và mang nó trở về.
Lạy Chúa tôi, mình sẽ đem con tàu Erasmus về, Blackthorne nghĩ. Và cùng với những người còn sống. Lúc này họ đang đi qua quảng trường, anh rời mắt khỏi con tàu nô lệ và thấy ba Samurai gác nắp hầm. Họ đang ăn bằng bát và đũa gỗ một các khéo léo, Blackthorne đã thấy họ dùng nhiều lần nhưng mình thì không làm được.
"Omi-san!", anh ra hiệu muốn tới nắp hầm, chỉ để hét một tiếng xuống cho các bạn. Chỉ một giây lát thôi.
Nhưng Omi lắc đầu, nói điều gì anh không hiểu và tiếp tục đi, xuống phần đất bồi, qua cái vạc, đi tiếp tới cầu tàu. Blackthorne ngoan ngoãn đi theo. Mỗi lần một thứ thôi, anh tự nhủ. Hãy kiên nhẫn.
Khi tới cầu tàu Omi quay lại, gọi những người gác ở nắp hầm, Blackthorne thấy họ mở nắp hầm và nhìn xuống. Một người vẫy gọi, những người làng lấy thang và một thùng nước mới khiêng xuống. Họ khiêng lên chiếc thùng không. Và cả thùng vệ sinh nữa.
Đó! Nếu mình kiên nhẫn và chơi ván bài của họ với quy luật của họ, mình có thể giúp đỡ đồng đội của mình, anh hài lòng nghĩ như vậy. Nhiều nhóm Samurai đứng tụ tập gần thuyền galleon. Một ông già cao lớn đứng tách riêng. Xét ở sự kính trọng mà cái lão Daimyo Yabu để lộ ra, cái cách những người khác nhảy dựng lên mỗi khi ông ta làm điều gì nhỏ nhất, Blackthorne lập tức nhận ra tầm quan trọng của ông ta. Ông ta có phải là vua của họ không? anh tự hỏi. Omi khúm núm quỳ. Ông già hơi cúi chào, đưa mắt nhìn anh.
Cố gắng lẩm bẩm thật nhẹ nhàng, Blackthorne quỳ và đặt hai tay xuống cát như Omi đã làm, cúi chào thấp như Omi.
"Konnichi wa, Sama", anh nói lễ độ.
Anh lại thấy ông già khẽ cúi chào.
Giờ đây có cuộc đối thoại giữa Yabu, ông già và Omi. Yabu nói với Mura.
Mura chỉ vào chiếc galleon:
"Anjin-san, tới đó."
"Tại sao?"
"Đi! Nào, đi!"
Blackthorne thấy nỗi kinh hoàng tăng lên:
"Tại sao?"
"Isogi!" Omi ra lệnh, vẫy tay về phía thuyền galleon.
"Không, tôi không..."
Tức khắc theo lệnh của Omi, bốn Samurai lao vào Blackthorne, tóm chặt hai cánh tay anh. Mura đưa ra cuộn dây thừng và trói giật tay anh lại sau.
"Đồ con hoang!" Blackthorne thét lên.
"Tao không lên cái con tàu nô lệ bị Chúa nguyền rủa đó!"
"Mẹ kiếp! Để nó đấy! Này, lũ khỉ uống nước tè kia, buông cái thằng con hoang ấy ra! Kinjiru, neh? Nó là hoa tiêu phải không? Anjin, ka?"
Blackthorne hầu như không tin được tai mình. Tiếng chửi mắng ồn ào bằng tiếng Portugal từ boong tàu galleon phát ra.
Rồi anh thấy người đàn ông đó đi xuống. Cũng cao lớn như anh và trạc tuổi anh nhưng tóc đen, mắt đen, mặc quần áo thuỷ thủ một cách cẩu thả, thanh trường kiếm giắt một bên, mấy khẩu súng lục giắt thắt lưng. Một cây thánh giá nạm đá quý đeo ở cổ. Anh ta đội chiếc mũ cát, miệng cười toác:
"Có phải anh là hoa tiêu không? Hoa tiêu Holland?"
"Đúng", Blackthorne trả lôi.
"Tốt. Tốt. Tôi là Vasco Rodrigues, hoa tiêu của tàu galleon này!"
Anh ta quay sang phía ông già, nói tiếng Nhật tiếng Bồ lung tung cả lên, gọi ông già là Monkey Sama - Ngài Khỉ thỉnh thoảng là Toda Sama, nhưng cách phát âm nghe như Toady Sama - Ngài Cóc cụ. Hai lần anh ta rút súng chỉ vào Blackthorne rồi lại nhét vào thắt lưng, tiếng Nhật của anh ta pha âm sắc rất nặng của tiếng thông tục Portugal mà chỉ những người đi trên biển mới hiểu.
Hiromatsu nói ngắn gọn, bọn Samurai buông Blackthorne ra, Mura cởi trói cho anh.
"Như vậy tốt hơn. Này, hoa tiêu, con người này như một ông vua. Tớ bảo ông ta tớ chịu trách nhiệm về cậu, tớ sẽ bắn bể sọ cậu nếu cậu say!" Rodrigues cúi chào Hiromatsu, rồi hớn hở nhìn Blackthorne:
"Cúi chào Bastard Sama - Ngài Con hoang đi."
Như trong mơ, Blackthorne làm theo.
"Cậu làm giống như một thằng Nhật", Rodrigues nói với nụ cười nhăn nhở." Cậu thực là hoa tiêu chứ?"
"Vĩ độ của Lizard là bao nhiêu?"
"Bốn mươi chín độ, năm mươi sáu phút Bắc - phải coi chừng đá ngầm ở New và Tây New."
"Lạy Chúa, cậu là hoa tiêu!" Rodrigues nồng nhiệt bắt tay Blackthorne.
"Lên tàu. Có thức ăn, rượu mạnh, rượu vang, rượu grộc và tất cả các hoa tiêu đều phải yêu hoa tiêu, tinh trùng của trái đất, Amen! Đúng không?"
"Đúng", Blackthorne nói yếu ớt.
"Khi tớ nghe nói bọn này sẽ mang một hoa tiêu về, tớ nói tốt. Đã bao nhiêu năm nay tớ chưa có cái sung sướng được nói chuyện với một hoa tiêu thứ thiệt. Lên tàu đi. Làm thế nào các cậu lên qua Malasca được vậy? Làm sao cậu có thể tránh được sự tuần tiễu Đại Dương Ấn Độ của bọn mình, hả? Cậu đã ăn cắp hải trình của ai vậy?"
"Các cậu mang mình đi đâu?"
"Osaka. Chính Chúa Công Hành Pháp Vĩ Đại muốn gặp cậu."
Blackthorne cảm thấy nỗi kinh hoàng trở lại.
"Ai?"
"Toranaga! Chúa của tám tỉnh, chẳng hiểu chúng ở cái chỗ chết tiệt nào! Vị Daimyo chính của Nhật Bản-một Daimyo như một ông vua hoặc Chúa phong kiến nhưng lại ghê hơn. Tất cả bọn chúng đều là bạo quân."
"Ông ta muốn ở gì tớ?"
"Tớ cũng không biết, nhưng chính vì thế mà chúng tớ đến đây và nếu Toranaga muốn gặp cậu, hoa tiêu ạ, ông ta sẽ gặp cậu. Họ nói, ông ta có hàng triệu tên cuồng tín mắt lé này, những kẻ sẽ chết vì được vinh dự chùi đít cho ông ta nếu ông ta thích!
"Toranaga muốn đem người hoa tiêu về,
"Vasco, phiên dịch của anh ta đã nói. Mang người hoa tiêu và hàng hóa về. Đưa Toda Hiromatsu đi để xem tàu và - ồ đúng rồi, hoa tiêu, tất cả đều bị tịch thu, tớ nghe thấy thế, tàu của cậu và mọi thứ trong đó!"
"Tịch thu?"
"Có thể là tin đồn. Bọn Nhật đôi khi tay này thì tịch thu, tay kia thì trả lại - hay giả vờ là họ không bao giờ ra lệnh như thế. Thật là khó hiểu cái lũ con hoang lùn mắc dịch này!"
Blackthorne cảm thấy những con mắt lạnh lùng của những người Nhật xoáy vào mình, anh cố gắng giấu sự sợ hãi của mình.
Rodrigues dõi theo cái nhìn của anh." Phải, chúng nó đã bồn chồn rồi đó. Thời gian nói chuyện đủ rồi. Lên tàu đi." Anh ta quay đi nhưng Blackthorne ngăn lại.
"Còn bạn của mình, thủy thủ của mình thì sao?"
"Hả?"
Blackthorne kể cho anh ta nghe ngắn gọn về cái hầm. Rodrigues hỏi Omi bằng thứ tiếng Nhật bồi.
"Nó nói họ không sao đâu. Này, bây giờ cả cậu lẫn mình đều không thể làm gì được đâu. Cậu phải đợi thôi - cậu không bao giờ có thể nói nổi một tên Nhật đâu. Chúng có sáu mặt, ba lòng." Rodrigues chào Hiromatsu như một cận thần Châu Âu.
"Đây là cách thức chúng tớ làm ở Nhật Bản. Y như ở triều đình gian dâm Philip 2 vậy, Chúa hãy đem cái thằng Spain đó tới mồ sớm." Anh ta dẫn đường lên sàn tàu trước sự ngạc nhiên của Blackthorne, không có dây xích, cũng không có nô lệ.
"Làm sao thế? Cậu ốm à?" Rodrigues hỏi.
"Không. Mình nghĩ đây là một con tàu nô lệ."
"Ở Nhật Bản không có như vậy. Ở hầm mỏ của họ cũng không có. Lũ điên, nhưng thế đó. Cậu không bao giờ thấy một lũ điên như vậy, mà tớ thì đã đi khắp thế giới ba lần rồi. Bọn tớ có những người chèo thuyền Samurai. Họ là lính, lính của thằng già thủ dâm - mà cậu không bao giờ thấy những tên nô lệ nào chèo thuyền khá hơn, hoặc ai đánh nhau giỏi hơn." Rodrigues cười.
"Chúng để đít vào mái chèo, tớ đẩy chúng ra xem những thằng thủ dâm này có chảy máu không, chúng không bao giờ rời chỗ. Bọn mình đi từ Osaka - hơn ba trăm dặm đường biển trong bốn mươi tiếng. Bọn mình sắp quăng dây. Cậu chắc không bị sao chứ?"
"Không. Không sao."
Blackthorne nhìn con tàu Erasmus. Nó bỏ neo cách đó một trăm mã.
"Hoa tiêu ơi, không còn dịp nào lên boong nữa, phải không? Họ không để cho tôi trở lại tàu, tôi không có quần áo, họ đã niêm phong cả lại lúc tôi đến. Cậu làm ơn".
Rodrigues nhìn chăm chú con tàu.
"Cậu mất cột buồm khi nào?"
"Ngay trước khi mình cập bờ ở đây."
"Vẫn còn cái dự trữ trên boong chứ?"
"Ừ."
"Cảng xuất phát của nó ở đâu?"
"Rotterdam."
"Tàu được đóng ở đó à?"
"Phải."
"Mình cũng đã từng ở đó. Bãi cát xấu nhưng cảng thì hay đếch chịu được. Đẹp lắm, cái con tàu của cậu ấy. Mới - chưa bao giờ tớ nhìn thấy một con tàu như vậy. Mẹ ơi hẳn là nhanh, nhanh lắm. Khó điều khiển đây." Rodrigues nhìn anh.
"Cậu có thể lấy được đồ nhanh không?" Anh ta nhìn đồng hồ cát.
"Có." Blackthorne cố gắng không để lộ trên nét mặt niềm hi vọng ngày một tăng.
"Một điều kiện. Hoa tiêu không có vũ khí giấu trong ống tay áo hoặc bất cứ ở đâu. Lấy danh dự người hoa tiêu thề. Tớ đã nói với lũ khỉ tớ chịu trách nhiệm về cậu."
"Tớ đồng ý." Blackthorne nhìn cát rơi lặng lẽ qua cổ đồng hồ.
"Tớ sẽ bắn bể sọ hoặc cắt cổ cậu, hoa tiêu, nếu có một chút lừa bịp nào."
"Tớ hứa với cậu mà, lời hứa của hoa tiêu với hoa tiêu, thề có Chúa, giáng cái bệnh lậu cho bọn Spain!"
Rodrigues cười, đấm vào lưng anh." Tớ bắt đầu thích cậu rồi đó Ingeles ạ."
"Sao cậu biết tớ là người Anh?" Blackthorne hỏi, biết rằng tiếng Portugal của anh hoàn hảo và tất cả những điều anh nói không có gì làm anh khác với một người Holland.
"Tớ là thầy bói. Tất cả các hoa tiêu chẳng như vậy sao?"
"Cậu đã nói chuyện với ông thầy tu phải không? Cha Sebastio đã nói với cậu?"
"Nếu có thể, không bao giờ tớ nói chuyện với thầy tu cả. Một tuần một lần cũng quá đủ cho bất cứ ai." Rodrigues khéo léo nhổ vào lỗ thông nước, bước ra lối đi trông ra phía cầu tàu." Toady Sama! Ikimasho ka?"
"Ikimasho, Rodrigues-san, Ima!"
"Phải rồi Ima", Rodrigues trầm tư nhìn Blackthorne.
"Ima" Nghĩa là "Bây giờ",
"Ngay lập tức",
"Chúng ta sẽ đi ngay, Ingeles."
Cát đã tạo thành một mô nhỏ, gọn ở đáy đồng hồ.
"Cậu đã hỏi ông ta chưa? Tôi có lên được tàu của tôi không?"
"Không, Ingeles ạ. Tớ sẽ không hỏi nó cái đéo gì hết."
Blackthorne đột nhiên cảm thấy trống rỗng. Và rất già nua. Anh nhìn Rodrigues đi tới tay vịn của sàn lái và rống lên với một anh chàng thủy thủ nhỏ bé đáng chú ý đang đứng ở phía mũi tàu.
"Này, ông thuyền trưởng, Ikimasho? Bảo các Samurai lên tàu, Ima! Ima, Wakari masu ka?"
"Hai. Anjin-san."
Ngay lập tức Rodrigues rung to chuông tàu sáu lần và san - thuyền trưởng bắt đầu hét lệnh cho các thủy thủ và Samurai trên bờ và trên tàu. Các thủy thủ từ dưới vội vã lên boong, chuẩn bị xuất phát, trong sự lộn xộn có kỷ luật. Rodrigues lặng lẽ cầm cánh tay Blackthorne và đẩy anh vào trong, cách xa bờ.
"Có xuồng cao su ở dưới, Ingeles. Đừng chuyển động nhanh, đừng nhìn xung quanh và đừng chú ý đến ai hết, ngoài tớ. Nếu tớ bảo cậu quay lại, quay lại ngay."
Blackthorne đi qua boong, xuống cầu tàu, về phía chiếc thuyền Nhật Bản con con. Anh nghe thấy những giọng nói giận dữ ở phía sau, và cảm thấy tóc ở sau gáy dựng lên bởi vì trên tàu có rất nhiều Samurai, một số trang bị bằng cung tên, một số bằng hỏa mai.
"Ông không phải lo ngại gì về anh ta, san, thuyền trưởng, tôi chịu trách nhiệm. Tôi, Rodrigues-san, ichi ban Anjin-san, thề có Đức Mẹ Đồng Trinh. Wakari masu ka?"
Tiếng này át những tiếng khác, nhưng bọn này ngày một trở nên giận dữ hơn.
Blackthorne hầu như đã bước xuống xuồng, anh thấy không có cọc chèo. Mình không thể chèo như họ được, anh tự nhủ. Mình không biết sử dụng thuyền! Bơi thì xa quá. Có xa quá không? Anh do dự, ước lượng khoảng cách. Nếu như anh còn đủ sức lực thì anh đã chẳng phải do dự giây nào.
Nhưng bây giờ? Những bước chân rầm rập ở cầu tàu phía sau anh. Anh phải đấu tranh với sự thôi thúc muốn quay lại.
"Ngồi ở đằng sau mũi", anh nghe Rodrigues giục giã."Nhanh lên!"
Anh làm theo, Rodrigues nhẹ nhàng nhảy vào, nắm lấy mái chèo, vẫn đứng, bơi ra một cách rất khéo léo.
Một Samurai đứng ở đầu cầu tàu, rất lúng túng, hai Samurai khác ở phía sau, cũng sẵn sàng. Thuyền trưởng Samurai gọi to, rõ ràng vẫy họ trở lại.
Cách con thuyền được vài.
"Iat", Rodrigues quay lại.
"Tới đó", anh nói to, chỉ con tàu Erasmus.
"Cho Samurai lên tàu đi!" Anh quay lưng lại một cách kiên quyết tiếp tục bơi, đẩy mái chèo theo kiểu Nhật Bản.
"Nếu chúng đặt tên vào cung, báo tớ biết ngay, Ingeles nhé! Để ý chúng cẩn thận? Bây giờ chúng đang làm gì đấy?"
"Tên thuyền trưởng rất tức giận. Cậu sẽ không lôi thôi gì chứ, hả?"
"Nếu chúng ta không đưa thuyền đi, lão Toađy có thể có lý do để phàn nàn. Bọn cung thủ đang làm gì đấy?"
"Chẳng làm gì cả. Chúng đang nghe hắn. Hắn chưa quyết định gì. Không. Chưa tên nào đặt tên lên cung cả."
Rodrigues chuẩn bị dừng.
"Mẹ ơi, chúng bắn chính xác đéo chịu được, không trệch phát nào đâu. Đặt vào cung chưa?"
"Rồi - nhưng đợi một chút đã! Có người nào tới bên hắn, một thủy thủ, tớ nghĩ thế. Hình như gã đang hỏi hắn điều gì về con tàu. Viên thuyền trưởng đang nhìn chúng mình. Hắn nói điều gì với tên cầm cung. Bây giờ nó đã bỏ xuống. Anh chàng thủy thủ đang chỉ cái gì trên boong."
Rodrigues liếc nhanh xem có đúng không và thở nhẹ nhàng hơn.
"Một người bạn đấy. Anh ta phải mất nửa tiếng đồng hồ để ổn định những người chèo."
Blackthorne chờ đợi, khoảng cách tăng lên.
"Viên thuyền trưởng lại nhìn chúng ta. Không, không sao. Hắn đi rồi Nhưng một tên Samurai."
"Kệ nó"'. Rodrigues thư thái nhưng vẫn không lơi tay chèo hay nhìn lại.
"Tớ không thích phơi lưng ra cho lũ Samurai, nhất là khi chúng có vũ khí trong tay. Mà tớ cũng chưa từng thấy một thằng con hoang nào không có vũ khí. Tất cả chúng nó đều là con hoang hết."
"Tại sao?"
"Tớ cũng chẳng hiểu tại sao. Ingeles, nhưng chúng là con hoang." Rodrigues trả lời, sung sướng được nói chuyện với người của mình.
"Tất nhiên tất cả bọn Nhật Bản này đều khác với chúng ta - chúng không cảm thấy đau đớn hay lạnh như chúng ta - nhưng bọn Samurai này thậm chí còn tệ hơn nữa. Chúng chẳng sợ gì hết, chết càng không. Tại sao? Chỉ có Chúa mới biết được, nhưng đó là sự thật. Nếu cấp trên bảo giết, chúng giết, bảo chết là chúng lao ngay vào lưỡi kiếm của chúng hoặc mổ ngay bụng ra."
"Chúng giết và chết dễ dàng như mình tè vậy. Phụ nữ cũng là Samurai Ingeles ạ. Họ sẽ giết để bảo vệ chủ của họ, ở đây họ gọi chồng như vậy, hay sẽ tự tử nếu họ được ra lệnh. Họ sẽ tự cắt cuống họng."
"Ở đây một Samurai có thể ra lệnh cho vợ phải tự tử và theo luật, người vợ phải thi hành. Hầy, Đức Mẹ Đồng Trinh ơi, tuy nhiên, phụ nữ là một cái gì khác, một loại khác, Ingeles ạ không có cái gì trên đời này giống họ, nhưng mà đàn ông... ".
"Samurai là loài bò sát và cách an toàn nhất là hãy đối xử với họ như với những con rắn độc. Cậu bây giờ ổn rồi chứ?"
"Ừ, cám ơn. Có yếu một chút nhưng không sao."
"Chuyến đi của cậu thế nào?"
"Vất vả. Về bọn họ - bọn Samurai - làm sao họ giống nhau như một. Có phải họ chỉ việc nhặt hai thanh kiếm lên và cắt tóc đi?"
"Cậu phải sinh ra là Samurai mới hiểu được. Tất nhiên, có đủ cấp bậc Samurai từ Daimyo trên cùng cái đống phân, đến cái chúng tớ gọi là lính trơn dưới đáy. Chủ yếu là cha truyền con nối như chúng ta vậy. Ngày xưa người ta kể tớ nghe như vậy, nó cũng giống như ở Châu Âu ngày nay - nông dân có thể làm lính, và lính là nông dân theo thứ bậc hiệp sĩ, nhà quý tộc lên đến vua. Một số lính nông dân có thể lên tới cấp bậc cao nhất. Taiko là một ví dụ."
"Ông ta là ai?"
"Nhà độc tài lớn, người thống trị toàn nước Nhật, tên sát nhân lớn nhất của mọi thời đại - rồi hôm nào tớ sẽ kể cho cậu nghe. Lão chết cách đây một năm và bây giờ lão đang bị thiêu đốt trong địa ngục." Rodrigues nhổ toẹt ra mạn thuyền.
"Cậu phải sinh ra là một Samurai mới làm được. Tất cả đều là di truyền lại, Ingeles ạ. Đức Mẹ ơi, cậu không biết chúng chồng chất lên huyết thống, gia đình, cấp bậc, vân vân và vân vân - cậu thấy Omi chào cái con quỷ Yabu như thế nào, và cả hai đều quỳ mọp trước Sama Cóc Cụ. Samurai là một từ Nhật Bản nghĩa là.
"Phục vụ." Nhưng trong khi bò rạp trước người trên, chúng đều là Samurai ngang nhau với những đặc quyền của Samurai. Chúng nó đang làm gì trên tàu đấy?"
"Tên thuyền trưởng đang líu lô líu lường với một tên Samurai và chỉ về phía chúng ta. Có gì đặc biệt về chúng không?"
"Ở đấy Samurai thống trị mọi thứ, có mọi thứ. Chúng có những nguyên tắc danh dự và những luật lệ. Kiêu căng ư? Đức Mẹ Đồng Trinh ơi, cậu không hiểu đâu. Tên hèn kém nhất trong bọn chúng cũng có thể giết một cách hợp pháp bất kỳ một người đàn ông, một người đàn bà, một đứa trẻ nào vì bất cứ một lý do gì hay không vì một lý do gì cả."
"Chúng có thể giết một cách hợp pháp, chỉ để thử lưỡi kiếm tẩm nước tè của chúng - tớ từng thấy chúng làm như vậy. Chúng có những thanh kiếm tốt nhất thế giới. Tốt hơn cả thép Đamasc. Cái thằng dâm với thú ấy đang làm gì vậy?"
"Đang theo dõi chúng ta. Cung của nó bây giờ khoác ở sau lưng rồi." Blackthorne rùng mình.
"Tớ căm ghét cái lũ này hơn lũ Spain."
Rodrigues lại cười trong khi vẫn chèo." Nếu sự thật cần được biết, chúng nó cũng làm tớ vãi tiểu! Nhưng nếu cậu muốn giàu nhanh thì cậu phải làm việc với chúng bởi vì cái gì chúng cũng có. Cậu chắc không việc gì chứ?"
"Ừ. Cám ơn. Cậu nói sao? Samurai có tất cả mọi thứ?
"Ừ. Cả nước này bị chẻ thành những đẳng cấp giống như ở Ấn Độ. Samurai đứng đầu, nông dân quan trọng thứ hai", Rodrigues nhổ toẹt ra ngoài thuyền." Chỉ nông dân mới có thể có đất. Hiểu không? Nhưng Samurai là chủ mọi sản phẩm. Chúng có tất cả thóc gạo, đó là hoa lợi quan trọng nhất và chúng trao lại một phần cho nông dân. Chỉ Samurai mới được phép mang vũ khí. Bất cứ ai tấn công một Samurai, nếu người đó không phải là.
Samurai đều là phản loạn, bị trừng phạt bằng cái chết tức thời. Bất cứ ai thấy một cuộc tấn công như vậy mà không báo cáo ngay cũng phải chịu trách nhiệm tương đương, vợ họ và thậm chí cả con họ nữa. Cả gia đình sẽ bị giết chết nếu một. người không báo cáo chuyện này. Đức Mẹ Đồng Trinh ơi, chúng là lũ quỷ con của Satan, cái bọn Samurai đó! Tớ đã thấy những đứa bế bị băm thành mảnh vụn." Rodrigues khạc một tiếng và nhổ.
"Cho dù như vậy, mới chỉ là đôi điều cậu biết được, thì đây vẫn là thiên đường trên mặt đất."
Anh ta lại nhìn về con tàu galleon cho chắc chắn, rồi cười.
"Ừ, cậu Ingeles ạ, một con thuyền đi quanh cảng thật không còn gì bằng, hả?"
Blackthorne cười. Năm tháng trôi khỏi con người anh khi anh say mê trong tiếng sóng vỗ, mùi biển mặn, hải âu cất tiếng gọi và bay lượn trên đầu, cảm giác tự do, cảm giác đã tới nơi sau thời gian xa vắng biền biệt.
"Tớ cứ nghĩ cậu không giúp tớ về con tàu Erasmus!"
"Đó là chỗ phiền với tất cả bọn Ingeles. Không có kiên nhẫn. Nghe đây này, ở đây cậu không hỏi bọn Nhật cái gì hết - Samurai hay ai ai nữa, chúng nó cùng một giuộc cả. Cậu mà hỏi, chúng nó sẽ do dự rồi lại hỏi người trên chờ quyết định. Ở đây cậu phải hành động. Tất nhiên, - tiếng cười sảng khoái của anh ta lan trên mặt sóng, - đôi khi cậu bị giết nếu cậu hành động lầm."
"Cậu chèo giỏi lắm. Trước lúc cậu tới, tớ còn đang lúng túng không biết dùng chèo như thế nào."
"Cậu không nghĩ tớ để cậu một mình chứ? Tên cậu là gì?"
"Blackthorne. John Blackthorne."
"Cậu đã bao giờ đến miền Bắc chưa, Ingeles? Đến miền cực Bắc ấy?"
"Tớ đi cùng Kees Veerman trên chiếc Der Lifle tám năm trước đây. Đó là chuyến đi thứ hai của ông tìm con đường Đông Bắc. Sao cơ?"
"Tớ muốn nghe chuyện đó - và tất cả những nơi cậu từng đặt chân đến. Theo cậu, họ có tìm được đường không? Con đường phía Bắc châu Á, Đông hay là Tây?"
"Có chứ. Cậu và khối Spain đều đi lộ trình phía Nam, vì vậy bọn tớ cũng phải thế. Có, chúng mình sẽ tìm thấy. Hoặc những người Holland. Sao cơ?"
"Cậu đã dẫn tàu qua biển Barbary, phải không?"
"Ừ. Sao?"
"Cậu biết cả Tripoli?"
"Hầu hết các hoa tiêu đều đến đó. Sao?"
"Tớ nghĩ tớ đã gặp cậu một lần. Đúng, ở Tripoli. Người ta chỉ cậu cho tớ. Hoa tiêu Ingeles nổi tiếng đi cùng nhà thám hiểm Holland, Kees Veerman vào Biển Băng. Đã có lần cậu là thuyền trưởng với Drake, hả? Ở Amada? Lúc đó cậu bao nhiêu tuổi?"
"Hai mươi tư. Cậu làm gì ở Tripoli lúc đó?"
"Tớ dẫn một tàu từ England. Tàu tớ bị mắc ở Ấn Độ Dương với tên hải tặc Morrow - tên nó là Henry Morrow. Nó đốt tàu của tớ sau khi cướp sạch và đề nghị tớ làm hoa tiêu - người của hắn vô dụng, hắn nói thế - cậu biết nó là thế nào rồi đó. Hắn muốn đi từ đó tóm được bọn tớ bọn tớ đang ở vùng Hispaniola.
Hispaniola hòn đảo lớn thứ hai ở Tây Ấn Độ được Colombo phát hiện năm 1492.
Khi hắn đi về phía Nam Main - một con sông ở Trung và tây Tây Đức rồi quay lại qua Đại Tây Dương định chặn con tàu Spain chở vàng gần Canari, rồi thẳng qua eo Malacca từ Tripoli, nếu không gặp thì sẽ làm những chuyến khác rồi lại quay về phía bắc tới Anh. Hắn ta đề nghị sẽ thả các chiến hữu của tớ, cho họ thức ăn và thuyền chở về nếu tớ làm với họ. Tớ nói:
"Được chứ, sao lại không? Miễn là chúng ta không lấy tàu Portugal và ông để tôi lên bờ gần Lisbon và đừng ăn cắp hải trình của tôi."
"Chúng tớ bàn tới bàn lui như thường lệ - cậu biết rồi đấy. Rồi tớ thề trước Đức Mẹ Đồng Trinh, cả hai cùng thề trên thánh giá và thế đó. Bọn tớ có một chuyến đi tốt đẹp và một gã thương nhân Spain béo phệ đã lần được vết của bọn tớ."
"Khi bọn tớ đi khỏi Lisbon, lão yêu cầu tớ ở lại tàu, đưa cho tớ bức thông điệp bình thường của nữ hoàng Bess, nào là bà sẽ trả một món tiền thật hậu hĩnh cho bất cứ một hoa tiêu Portugal nào về với bà và dạy những người khác kỹ xảo tại Trinity House và cho năm nghìn guineas, đây là đồng tiền vàng của Anh, phát hành từ năm 1813, trị giá 21 shillings để lấy hải trình của đường Magellan hoặc mũi Hảo Vọng".
Nụ cười của anh ta rộng mở, răng trắng; và khỏe, hàng ria đen và râu tỉa đẹp đẽ.
"Tôi không có."
"Ít nhất tớ cũng nói với hắn như thế. Morrow giữ lời, như tất cả hải tặc nên giữ. Hắn cho tớ lên bờ cùng những hải trình của tớ - tất nhiên, hắn đã sao lại chúng mặc dù bản thân hắn không biết đọc, biết viết và hắn cũng chia phần tiền thưởng cho tớ. Cậu có bao giờ đi biển với hắn không, Ingeles?"
"Không. Nữ hoàng phong tước hầu cho ông ấy vài năm trước đây. Tớ chưa bao giờ phục vụ trên một con tàu nào của ông ấy. Tớ cũng mừng là ông ấy tốt với cậu."
Họ đã tới gần tàu Erasmus. Những Samurai đang nhìn xuống họ một cách tọc mạch.
"Đó là lần thứ hai tớ dẫn tàu cho những kẻ ngoại đạo. Lần thứ nhất thì không được may mắn."
"Thế hả?"
Rodrigues gác mái chèo, con thuyền lượn khéo léo sang mạn tàu và bám vào dây thừng.
"Đi lên, nhưng để việc nói năng cho tớ."
Blackthorne bất đầu trèo lên trong khi người hoa tiêu kia buộc thuyền an toàn. Rodrigues nhảy lên boong đầu tiên. Anh chào như một triều thần.
"Konnichina tất cả lũ Sama ăn cỏ!"
Có bốn Samurai trên boong. Blackthorne nhận ra một trong bốn tên đó là tên gác cửa hầm. Bàng hoàng, tất cả bọn họ đều chào anh chàng Portugal. Blackthorne cũng bắt chước y hệt, thấy mình rất vụng về, ao ước mình chào đúng quy cách hơn.
Rodrigues bước thẳng về phía thang dẫn từ khoang này tới khoang khác. Dấu niêm phong vẫn còn nguyên. Một Samurai ngăn anh ta lại.
"Kinjiru, gomen nasai. - Xin lỗi, cấm."
"Kinjiru, hả?" Anh chàng Portugal nói, rõ ràng không hề bối rối gì hết.
"Tôi là Rodrigues san, Anjin cho Toda Hiromatsu Sama. Cái dấu niêm phong này", anh nói, tay chỉ vào dấu son với những chữ kỳ quặc viết lên trên.
"Toda Hiromatsu Sama, ka?"
"Iyé" tên Samurai nói, lắc đầu,
"Kasigi Yabu Sama!"
"Iyé?" Rodrigues nói." Kasigi Yabu Sama? Ta là người của Hiromatsu Sama, là một ông vua lớn hơn cái thằng thủ dâm của ngươi và Sama Cóc Cụ là người của Toranaga Sama, lão thủ dâm Sama lớn nhất thế giới. Phải không?" Anh rạch dấu niêm phong khỏi cửa, một tay buông xuống súng, kiếm đã rút ra khỏi bao một nửa, anh khẽ nói với Blackthorne.
"Chuẩn bị rời tàu" và cau có nói với tên Samurai,
"Toranaga Sama!" Anh lấy tay trái chỉ vào cờ trên vai mình." Wakarima ka?" Những tên Samurai trù trừ, kiếm của chúng đã sẵn sàng. Blackthorne chuẩn bị nhào sang bên kia.
"Toranaga Sama!" Rodrigues đá vào cửa, then tung ra, cửa bật mở." Wakari masu ka?"
"Wakari masu, Anjin-san." Bọn Samurai nhanh chóng cất kiếm đi, cúi chào, xin lỗi và lại cúi chào, Rodrigues nói giọng khàn khàn.
"Thế tốt", dẫn đường xuống dưới.
"Jesuma, Rodrigues", Blackthorne nói khi họ đã ở boong dưới.
"Cậu có luôn luôn làm như thế này mà thoát được không?"
"Thỉnh thoảng lắm tớ mới làm", anh chàng Portugal nói, lau mồ hôi đọng ở lông mày,
"Và ngay lúc đó tớ cũng ước giá mình đừng bao giờ bắt đầu làm điều đó."
Blackthorne tựa vào vách ngăn.
"Mình cảm thấy như bị ai đá vào bụng."
"Đó là cách duy nhất. Mình phải hành động như một ông vua."
"Dù thế nữa, cũng không biết thế nào mà nói với một tên Samurai. Chúng nguy hiểm như một lão thầy tu cắm nến ở lỗ đít ngồi trên hòm thuốc súng đầy một nửa."
"Toda Hiromatsu là cố vấn chính của Toranaga - lão là một Daimyo lớn hơn cái gã Daimyo ở địa phương đây. Chính vì thế mà chúng mới chịu."
"Ông ta như thế nào, Toranaga ấy?"
"Chuyện dài, Ingeles ạ." Rodrigues ngồi trên bục, tháo ủng, xoa mắt cá chân.
"Tớ suýt nữa gãy chân vì cái cửa chấy rận của cậu."
"Nó có khóa đâu. Lý ra cậu chỉ việc mở nó ra."
"Tớ biết. Nhưng như vậy không có hiệu quả bằng. Lạy Đức Mẹ Đồng Trinh, cậu còn phải học nhiều!"
"Cậu dạy tớ nhé?"
Rodrigues đi ủng vào.
"Cái đó còn tùy", anh nói.
"Tùy gì?"
"Chúng ta còn phải xem, phải không nào? Cho đến giờ, toàn là tớ nói, mà điều đó là đúng thôi - tớ thích hợp, cậu không. Chẳng bao lâu nữa sẽ đến lượt cậu. Phòng nào là phòng của cậu?"
Blackthorne ngấm nghía anh ta một giây. Mùi dưới boong tàu nằng nặng.
"Cám ơn đã giúp tớ lên."
Anh dẫn đường ra đuôi tàu. Cửa phòng anh không khóa. Cabin đã bị lục tung, những thứ mang đi được đã bị mất. Không có sách vở, quần áo hay dụng cụ, chăn mền gì hết. Cả két đi biển của anh cũng bị bật khóa. Và trống rỗng.
Giận tái người, anh bước vào cabin lớn, Rodrigues theo dõi chăm chú. Ngay cả khoang bí mật cũng bị phát hiện và cướp bóc.
"Chúng đã lấy đi tất cả mọi thứ. Đồ chấy rận mắc dịch."
"Cậu mong đợi khác thế ư?"
"Tớ không biết. Tớ nghĩ - với dấu niêm phong..."
Blackthorne đến phòng bọc sắt. Nó trống trơn, ngay cả kho súng đạn. Cái khoang chỉ còn chứa những kiện vải len.
"Chúa nguyền rủa tất cả lũ Nhật Bản!" Anh quay lại cabin của mình và đóng sầm két đi biển.
"Chúng đâu?" Rodrigues hói.
"Cái gì?"
"Hải trình của cậu. Hải trình đi biển của cậu đâu?"
Blackthorne nhìn xoáy vào anh ta.
"Không hoa tiêu nào lo quần áo hết. Cậu tới để tìm hải trình có phải không?"
"Phải."
"Tại sao cậu ngạc nhiên như vậy, Ingeles? Tại sao cậu nghĩ là tớ lên tàu này để giúp cậu lấy mấy cái quần rách? Chúng cũng tả tơi lắm rồi, cậu sẽ phải cần áo quần mới. Tớ có rất nhiều cho cậu. Nhưng hải trình đâu?"
"Biến rồi. Tớ để chúng ở két đi biển của tớ."
"Tớ sẽ không ăn cắp chúng đâu, Ingeles ạ. Tớ chỉ muốn đọc chúng thôi. Và chép lại nếu cần. Tớ sẽ nâng niu nó như của bản thân mình, bởi thế cậu không việc gì phải lo lắng." Giọng anh ta đanh lại.
"Tìm chúng đi, Ingeles, chúng ta còn ít thì giờ lắm."
"Không tìm được. Chúng biến mất rồi. Tớ để chúng trong két đi biển của tớ."
"Cậu không thể để chúng ở đó được - nhất là khi tới một cảng ngoại quốc. Cậu không quên nguyên tắc đầu tiên của một hoa tiêu - cất giấu chúng cẩn thận, chỉ để lộ những cái giả thôi. Nhanh lên!"
"Chúng bị đánh cắp rồi!"
"Tớ không tin cậu. Nhưng tớ thừa nhận cậu đã giấu nó rất kỹ. Tớ đã tìm hai tiếng đồng hồ liền mà không thấy được cái của cậu."
"Cái gì?"
"Tại sao cậu lại ngạc nhiên vậy, Ingeles? Đầu cậu để ở dưới đít à? Tất nhiên, tớ từ Osaka đến đây để điều tra hải trình của cậu!"
"Cậu đã lên boong rồi à?"
"Đức Mẹ ơi!" Rodrigues nói một cách sốt ruột."Ừ, tất nhiên, hai, ba tiếng đồng hồ trước đây cùng với Hiromatsu, lão muốn xem. Lão bật niêm phong rồi, sau khi chúng tớ đi, cái tên Daimyo địa phương này lại niêm phong lại. Nhanh lên, lạy Chúa." Anh ta nói thêm:
"Cát đang chảy hết dần rồi."
"Chúng bị đánh cắp!" Blackthorne kể cho anh ta nghe họ đã đến như thế nào, anh đã tỉnh dậy trên bờ thế nào. Rồi anh đá cái két đi biển sang bên kia, tức giận những kẻ đã ăn cướp tàu của anh.
"Chúng bị đánh cắp! Tất cả bản đồ của tớ! Tất cả hải trình của tớ! Tớ có vài bản sao ở Anh, nhưng hải trình của chuyến đi này đã mất và cả...!" Anh dừng lại.
"Và cả hải trình Portugal? Nào Ingeles, phải là hải trình Portugal."
"Ừ, hải trình Portugal, nó cũng biến nốt." Phải bình tĩnh, anh nghĩ. Chúng mất rồi và thế là hết. Ai lấy chúng? Bọn Nhật ư? Hay chúng đưa nó cho lão thầy tu? Không có hải trình, không bản đồ, anh làm sao về được tới nhà? Anh sẽ không bao giờ về được nhà..."
"Không đúng. Anh vẫn có thể tìm được đường về nếu cẩn thận hết sức và may mắn... Đừng lố bịch nữa! Anh đã đi nửa đường vòng quanh trái đất, trên đất thù, trong tay thù, anh không có hải trình, không hải đồ." Ôi, xin Chúa ban cho con sức mạnh!"
Rodrigues theo dõi anh chăm chú. Cuối cùng anh ta nói.
"Tôi chia buồn cùng cậu, Ingeles. Tôi biết cậu đang cảm thấy thế nào - nó cũng xảy đến với tôi một lần. Hắn ta cũng là người Ingeles, tên trộm, cầu cho tàu của nó và cả nó bị đốt trong ngọn lửa địa ngục đời đời. Nào, chúng ta trở lại đi."
Omi và những người khác đợi ở cầu tàu cho đến khi chiếc galleon lượn vòng mũi biển và mất hút. Phía Tây, những lớp đêm đã ngoạm bầu trời đỏ rực. Phía Đông, đêm đã nối trời và biển vào nhau không còn chân trời.
"Mura, đem tất cả đại bác trở lại tàu mất bao lâu?"
"Nếu làm suốt đêm thì đến trưa mai, thưa Omi-san. Nếu chúng ta bắt đầu lúc rạng sáng, chúng ta sẽ xong trước lúc mặt trời lặn. Làm việc ban ngày an toàn hơn."
"Làm việc hết đêm. Đem lão thầy tu tới hầm ngay."
Omi liếc nhìn Igurashi, tỳ tướng chính của Yabu, vẫn đang ngó ra mũi biển, mặt hắn căng thẳng, các thớ thịt trong lòng mắt rỗng của hắn bị che đi một cách ma quái.
"Xin mời ông ở lại, Igurashi-san. Nhà tôi nghèo nhưng có lẽ cũng làm ông được thoải mái."
"Cám ơn", Igurashi nói, lưng quay lại anh ta.
"Nhưng chủ chúng ta nói trở về Yedo ngay, vậy tôi sẽ trở về ngay." Nỗi quan tâm của hắn càng tăng.
"Tôi ước giá được đi đến chiếc galleon đó."
"Vâng."
"Tôi không thích thấy Yabu-san trên tàu chỉ có hai người. Tôi không thích như vậy."
"Vâng."
Hắn chỉ chiếc Erasmus." Con tàu quỷ quái, thế đó! Nhiều của cải đến thế, rồi không còn gì."
"Chắc là tất cả mọi thứ? Lãnh chúa Toranaga hẳn là vui, hết sức vui với quà tặng của Chúa Yabu?"
"Cái thằng khỉ gió chuyên đi cướp các tỉnh đầy vẻ quan trọng hóa, thậm chí nó không để ý đến số lượng bạc nó sẽ lấy cắp được của chủ chúng ta. Đầu óc ông để đâu?"
"Tôi nghĩ chính nỗi lo ngại về sự nguy hiểm có thể xảy ra với Chúa của chúng ta đã thúc đẩy ông đưa ra một nhận xét như thế."
"Ông nói đúng, Omi-san. Không có một ý định nhục mạ nào. Ông rất thông minh và giúp đỡ chủ chúng ta nhiều. Có lẽ ý kiến của ông về Toranaga cũng đúng."
Igurashi nói, nhưng hắn suy nghĩ, hãy cứ hưởng của cải mới nhận được của người đi, thằng ngu ngốc khốn khổ.
Ta biết chủ của ta hơn ngươi, cái thái ấp được tăng lên của ngươi cũng chẳng ích lợi gì đâu. Sự tiến bước của ngươi là để đáp lại con tàu, bạc, và vũ khí. Nhưng bây giờ chúng tiêu tan hết cả rồi. Và cũng tại ngươi mà chủ ta đang trong hiểm họa.
Ngươi đã gửi thư và nói:
"Hãy xem bọn rợ trước", để nhử người. Lý ra chúng ta đã có thể đi hôm qua. Phải, và như vậy thì chủ ta lúc này đã an toàn cùng với tiền và vũ khí. Ngươi có phải là một tên phản bội không? Ngươi hành động cho bản thân ngươi, cho người cha ngu ngốc của ngươi hay cho một kẻ thù? Cho Toranaga, có lẽ? Không sai."
"Ngươi có thể tin ta, Omi, thằng trẻ con nếm cứt, ngươi và chi tộc Kasagi của ngươi không tồn tại lâu trên mặt đất này đâu. Ta sẽ nói thẳng vào mặt ngươi, nhưng lúc ấy ta sẽ phải giết ngươi và ta sẽ xóa tan niềm vui của chủ ta. Người sẽ nói khi nào, chứ không phải là ta."
"Cám ơn tấm lòng hiếu khách của ông, Omi-san", hắn nói.
"Tôi mong sớm được gặp ông, nhưng bây giờ tôi phải đi."
"Ông có thể giúp tôi một việc được không? Cho tôi gửi lời hỏi thăm cha tôi. Tôi xin cảm ơn ông lắm."
"Tôi rất hân hạnh làm điều đó. Ông cụ là một người tốt. Mà quên, tôi chưa chúc mừng ông về thái ấp mới của ông."
"Ông thật tử tế quá."
"Xin cảm ơn ông một lần nữa, Omi-san." Hắn giơ tay chào thân mật, chỉ tay về phía quân của mình và dẫn đội kị binh ra khỏi làng.
Omi đi về phía hầm. Gã thầy tu ở đó. Omi có thể thấy được gã đang giận dữ. Omi hy vọng gã làm một điều gì lộ liễu công khai để có thể nện cho một trận.
"Thầy tu, hãy nói với bọn rợ chuẩn bị lên, từng đứa một. Bảo với chúng nó rằng Chúa Yabu nói chúng có thể sống lại trong thế giới của con người." Omi cố làm cho lời nói của mình đơn giản.
"Nhưng chỉ vi phạm luật một chút thôi là hai tên sẽ bị đưa lại xuống hầm. Chúng phải biết cư xử và tuân thủ mọi mệnh lệnh. Rõ chưa?"
"Rõ."
Omi bắt gã thầy tu nhắc lại. Khi biết chắc gã hiểu đúng, anh ta mới bắt gã nói xuống hầm.
Mọi người lên, từng người một. Tất cả đều sợ hãi. Một số người phải dìu. Một người quá đau và thét lên mỗi khi có ai sờ vào cánh tay.
"Chín người cơ mà?"
"Một người chết. Xác anh ta ở dưới đó, dưới hầm", gã thầy tu nói. Omi suy nghĩ một lát.
"Mura, hãy đốt cái xác đó và giữ tro cùng với nắm tro của tên rợ kia. Để những người này vào ngôi nhà trước đây. Cho họ nhiều rau và cá. Xúp lúa mạch và trái cây. Tắm cho họ. Mùi khắm quá. Ông thầy tu bảo với họ nếu họ cư xử tốt và biết vâng lời, thức ăn sẽ tiếp tục."
Omi theo dõi và lắng nghe kỹ. Anh ta thấy họ đều phản ứng một cách biết ơn. Anh ta khinh bỉ nghĩ, ngu ngốc làm sao! Ta chỉ tước của họ hai ngày và cho họ một chút cỏn con và bây giờ họ sẽ ăn cứt, họ thực sự sẽ ăn cứt.
"Mura, bảo họ cúi chào đúng cách rồi dẫn họ đi."
Rồi anh quay về phía gã thầy tu.
"Thế nào?"
"Tôi đi đây. Về nhà tôi. Rời Anjiro."
"Tốt hơn hết là ông nên đi, lánh xa mãi mãi, ông và tất cả những cố đạo như ông. Có lẽ lần sau, một người trong bọn các ông tới thái ấp của ta thì đó là vì một số nông dân hoặc chư hầu theo đạo Thiên Chúa của ta phạm tội phản quốc", Omi nói, dùng sự đe dọa và thủ đoạn cổ điển mà những Samurai chống Thiên Chúa giáo dùng để khống chế việc lan tràn bừa bãi chủ thuyết ngoại bang vào trong thái ấp của họ, vì các cố đạo người nước ngoài được bảo vệ, còn các tín đồ Nhật Bản của họ thì không."
"Những người Thiên Chúa Nhật Bản tốt, luôn luôn tốt. Các chư hầu tốt. Không bao giờ có tư tưởng xấu. Không."
"Tôi sung sướng nghe như thế. Đừng quên thái ấp của tôi trải dài hai mươi ri về các ngả. Ông hiểu không?
"Tôi hiểu. Vâng. Tôi hiểu rất rõ."
Omi nhìn gã thầy tu chào một cách cứng nhắc - ngay cả các ông thầy tu rợ cũng phải có phép tắc - và bước đi.
"Omi-san?", một Samurai nói. Anh này trẻ và rất đẹp trai.
"Gì thế?"
"Xin tha lỗi, tôi biết ngài không quên, nhưng Masijiro-sanvẫn còn ở trong hầm."
Omi đến bên cửa hầm và nhìn xuống người Samurai. Lập tức người này quỳ xuống, cung kính chào.
Hai ngày đã làm anh ta già đi. Omi cân nhắc sự phục vụ trước đây và giá trị sau này của anh ta. Rồi rút con dao găm khỏi đai lưng của anh chàng Samurai trẻ tuổi, thả nó xuống hầm.
Dưới chân thang, Masijiro nhìn con dao một cách ngờ vực Nước mắt ròng ròng chảy xuống hai bên má.
"Tôi không xứng đáng với vinh dự này, Omi-san." Anh ta nói khúm núm.
"Cám ơn ngài."
Anh chàng Samurai trẻ bên cạnh Omi nói:
"Tôi xin phép cho anh ấy được mổ bụng ở đây, trên bãi biển?."
"Anh ta đã thất bại trong hầm. Anh ta sẽ ở lại trong hầm. Hãy ra lệnh cho dân làng lấp đất lên. Hãy xóa tất cả mọi dấu vết. Bọn rợ đã làm ô uế nó."
Kiku cười và lắc đầu." Không, Omi-san, em xin lỗi, thôi đừng rót rượu sake cho em nữa không thì tóc em rụng xuống, em sẽ ngã, và lúc ấy thì chúng ta sẽ ở đâu?"
"Anh sẽ cùng ngã với em, chúng mình sẽ chăn gối với nhau, sẽ lên cõi Nát Bàn, vượt khỏi con người chúng ta." Omi nói sung sướng, đầu anh ta như bơi vì rượu.
"À, nhưng em sẽ ngáy và chàng không thể chăn gối với một cô gái say ngáy vang trời và sẽ chẳng sung sướng gì. Tất nhiên là không, xin chàng tha lỗi. Ồ, không, thưa Omi Sama của thái ấp mới khổng lồ, chàng xứng đáng hơn thế!" Nàng đổ một chung rượu ấm vào chiếc tách sứ nhỏ xíu, nâng cả hai tay, ngón trỏ và ngón cái tay trái nhẹ nhàng nâng tách, ngón trỏ của bàn tay phải đặt dưới đáy.
"Thưa đây, bởi vì chàng tuyệt vời!"
Omi nhận lấy chén uống nhấm nháp, tận hưởng cái ấm áp và cái hương vị ngọt ngào.
"Anh rất sung sướng vì đã có thể thuyết phục được em ở lại thêm một ngày nữa. Em đẹp quá, Kiku-san."
"Chàng rất đẹp, và đó là niềm sung sướng của em."
Mắt nàng nhảy múa trong ánh nến lồng trong khung tre phất giấy hoa treo ở trần nhà bằng gỗ tuyết tùng. Đây là dãy phòng sang nhất trong Trà gia gần quảng trường. Nàng nghiêng người giúp Omi sẻ thêm chút cơm nữa từ chiếc bát gỗ đơn giản đặt trên chiếc bàn thấp sơn đen, nhưng anh ta lắc đầu.
"Không, không, cám ơn."
"Chàng nên ăn nhiều hơn, một người khỏe mạnh như chàng."
"Anh no rồi, thật mà."
Anh ta không mời nàng bởi vì hầu như nàng không động đến món xà lách nhỏ của nàng-dưa chuột thái lát mỏng, củ cải ngâm với dấm ngọt - đó là tất cả những món ăn nàng dùng trong suốt bữa. Có những miếng cá tươi nhỏ xíu đặt trên những nắm cơm nắm, xúp, xà lách, một ít rau tươi chấm với tương gừng. Và cơm.
Nàng vỗ tay khe khẽ, cửa shoji mở ngay, người đầy tớ gái của nàng bước ra.
"Dạ, thưa cô?"
"Suisen, dọn tất cả những thứ này đi, mang thêm rượu sake và một bình trà mới, trái cây nữa. Rượu sake phải nóng hơn lần trước đấy. Nhanh lên, đồ đoảng vị!"
Nàng cố gắng lấy vẻ oai vệ.
Suisen mười bốn tuổi, nhẹ nhàng, sẵn lòng chiều mọi người, cô là một kỹ nữ tập sự. Cô bé đã ở với Kiku hai năm và Kiku chịu trách nhiệm huấn luyện cô bé.
Với một cố gắng, Kiku rời mất khỏi chỗ cơm trắng tinh mà nàng rất thèm ăn và xua đi cơn đói. Ngươi đã ăn trước khi ngươi tới và rồi ngươi sẽ ăn, nàng nhắc mình như thế. Phải, nhưng dù thế nào nữa thì cũng vẫn ít quá.
"À, nhưng người phụ nữ khuê các ăn chút thôi, chút xíu thôi", thầy giáo của nàng thường dạy.
"Khách ăn và uống - càng nhiều càng tốt. Người con gái không ăn và tất nhiên không bao giờ ăn cùng khách. Người con gái làm sao có thể nói chuyện, tiếp khách hay chơi đàn samuisen hoặc nhảy múa nếu họ tọng đày mồm? Con sẽ ăn sau, hãy kiên nhẫn. Tập trung vào người khách của con."
Trong khi vừa theo dõi Suisen một cách dò xét, vừa đánh giá sự khéo léo của cô bé, nàng vừa kể cho Omi nghe những chuyện làm anh ta cười và quên thế giới bên ngoài.
Cô bé quỳ bên cạnh Omi, dọn những chiếc bát nhỏ và đũa trên chiếc khay sơn dầu, sắp xếp rất đẹp mắt như đã được dạy. Sau đó cô cầm bình rượu sake đã hết, dốc xuống để xem nó đã thật hết chưa - nếu lắc bình thì rất dở - rồi cầm khay đứng lên, bê nó ra cửa không một tiếng động, quỳ, đặt cái khay xuống, mở cửa shoji, đứng lên, bước qua cửa, lại quỳ, nâng cái khay ra, đặt xuống không một tiếng động rồi khép cửa lại hoàn toàn.
"Em phải kiếm một đứa đầy tớ khác", Kiku nói, không phải không hài lòng. Cái màu đó hợp với con bé. nàng nghĩ. Mình phải gửi đi Yedo mua thêm một ít lụa như thế. Tiếc là nó quá đắt. Thôi đừng để ý đến tất cả món tiền Gyoko-san cho đêm qua và đêm nay, phần mình cũng thừa đủ để mua cho bé Suisen hai mươi chiếc kimono. Con bé dễ thương và quả là rất duyên dáng.
"Nó làm ầm ĩ quá - náo động cả phòng - xin lỗi chàng."
"Anh không để ý tới cô bé đó. Chỉ để ý tới em thôi", Omi nói và uống cạn rượu.
Kiku phẩy quạt, nụ cười thắp sáng khuôn mặt nàng.
"Omi-san, chàng làm em sung sướng quá. Vâng. Dễ thương quá."
Suisen mang nhanh rượu sake ra. Và trà. Chủ của cô rót rượu và đưa cho Omi. Cô bé kín đáo rót đầy chén, không làm rớt một giọt nào và cô nghĩ tiếng rượu rót vào chén được phép tạo nên một âm thanh lặng lẽ. Cô thở dài, trong lòng nhẹ nhõm, ngồi lại trên gót chân và đợi.
Kiku kể một chuyện vui nàng đã nghe được của một người bạn ở Mishima, Omi cười. Vừa kể nàng vừa lấy một quả cam, dOng những ngón tay dài của mình, bóc ra y như thể đó là một bông hoa, múi là cánh hoa, vỏ là lá. Nàng bỏ một ít xơ đi, dâng hai tay y như cách thông thường một thiếu nữ phục vụ khách.
"Chàng có thích cam không, Omi-san?"
Phản ứng đầu tiên của Omi là nói tôi không thể tàn phá một cái đẹp như thế. Nhưng như vậy thì vô lý, anh nghĩ và choáng váng vì tài khéo léo của nàng.
Mình biết khen ngợi nàng thế nào đây? Và người thầy không tên của nàng nữa? Mình làm sao đáp đền được niềm hạnh phúc nàng đã cho mình, đã cho mình ngắm những ngón tay nàng tạo ra một cái thật quý giá nhưng cũng thật mong manh?
Omi cầm bông hoa trong một lát, gỡ ra bốn múi đều nhau, ăn một cách sung sướng. Còn lại là một bông hoa mới-Anh ta lại tách làm bốn múi, lại tạo thành một kiểu hoa nữa. Sau đó lấy một múi, và múi thứ hai, ba múi còn lại, lại tạo thành một bông hoa nữa. Rồi anh ta lấy thêm hai múi, để lại múi cuối cùng trong nôi cam, nghiêng một bên như mảnh trăng lưỡi liềm trên bầu trời.
Anh ta ăn một múi rất thong thả. Khi ăn xong, anh để múi kia vào giữa lòng bàn tay mình và đưa ra." Múi này em phải lấy, đó là múi gần chót. Đây là quà tặng của tôi cho em."
Suisen như không thở được. Còn múi cuối cho ai?
Kiku cầm lấy múi cam, ăn. Đó là múi cam ngon nhất nàng ăn từ xưa đến nay.
"Đây múi cuối cùng", Omi nói, để cả bông hoa vào lòng bàn tay phải,
"Đây là món quà của tôi dâng các vị thần linh, dù họ là ai, dù họ ở đâu. Tôi sẽ không bao giờ ăn múi này nữa trừ phi nó từ bàn tay em."
"Như vậy là quá, thưa Omi Sama", Kiku nói.
"Em giải thoát lời thề cho chàng! Điều đó được nói lên do ảnh hưởng của kami đang ngự trị trong tất cả những chai sake!"
"Tôi từ chối được giải thoát."
Họ rất hạnh phúc bên nhau.
"Suisen", nàng nói.
"Bây giờ đi đi. Và hãy làm thật duyên dáng, nghe con."
"Vâng, thưa cô chủ." Cô bế đi vào phòng bên để xem chăn đệm có cẩn thận không, những dụng cụ ái tình, những bông hoa hoàn hảo. Một vết nhăn không nhận thấy đã được vuốt thẳng của chiếc khăn trải nhẵn lì. Rồi mãn nguyện, Suisen ngồi xuống, thở dài nhẹ nhõm, quạt cho hết hơi nóng ở mặt bằng chiếc quạt màu hoa đinh hương và hoan hỉ đợi.
Trong phòng bên, phòng đẹp nhất trong trà gia, phòng duy nhất có vườn, Kiku nhấc cây đàn samuisen có tay cầm dài. Nó ba dây, giống như đàn ghi-ta, tiếng đàn cao vút đầu tiên của Kiku nổi lên tỏa khắp phòng. Rồi nàng bắt đầu hát. Lúc đầu nhẹ nhàng, rồi rung động, rồi lại nhẹ nhàng, rồi to hơn, rồi nhẹ nhàng đi như tiếng thở dài ngọt ngào, rất ngọt ngào.
Nàng hát về tình yêu, tình yêu không được đáp lại, về hạnh phúc và nỗi buồn.
"Thưa cô?" Tiếng thì thầm không đủ để đánh thức một người thính ngủ nhất nhưng Suisen biết cô chủ không thích ngủ sau cuộc mây mưa dù nó có mạnh mẽ đến thế nào. Nàng thích nghỉ ngơi, nửa thức, trong trạng thái yên tĩnh.
"Chuyện gì thế, Sui chan?" Kiku thì thầm, dùng chữ.
"Chan" như người ta dùng với một đứa bé yêu quý.
"Phu nhân của Omi-san đã trở về. Kiệu của bà ấy vừa về đến nhà."
Kiku liếc nhìn Omi. Cổ anh ta tựa thoải mái trên gối gỗ nhồi, cánh tay khoanh. Thân hình anh ta khỏe mạnh, không tỳ vết, nước da rắn chắc màu vàng sáng. Nàng ve vuốt nhẹ nhàng đủ để làm cái vuốt ve ấy đi vào giấc mộng của anh ta nhưng không đủ để đánh thức anh ta dậy. Rồi nàng ra khỏi chăn, khép kín kimono lại.
Kiku mất rất ít thời gian trang điểm lại vì Suisen đã chải tóc cho nàng và buộc lại theo kiểu shimoda. Rồi cô chủ và người hầu đi dọc hành lang, không một tiếng động, ra ngoài hàng hiên, qua vườn tới quảng trường. Thuyền bè như đom đóm miệt mài đi lại từ tàu rợ tới cầu tàu nơi bảy khẩu đại bác vẫn còn đợi để chất lên. Đêm vẫn khuya, còn lâu mới sáng.
Hai người đàn bà luồn theo ngõ hẹp giữa những khóm nhà và bắt đầu leo lên đường lớn.
Những người khiêng kiệt lực, mồ hôi nhễ nhại đang ráng sức quanh chiếc kiệu trên đỉnh đồi bên ngoài nhà Omi. Kiku không gõ cửa ở vườn. Nến thắp sáng trong nhà, đầy tớ rộn rịp đi lại. Nàng ra hiệu cho Suisen, cô bé lập tức đi tới hàng hiên gần cửa trước, gõ và đợi. Lúc sau cánh cửa mở, người hầu gái gật đầu và biến đi. Một lát sau, người hầu quay lại ra hiệu cho Kiku, và cúi đầu chào rất thấp khi nàng lướt qua. Một người hầu gái khác đi vội vã ở phía trước, và mở cánh shoji của căn phòng đẹp nhất.
Giường của mẹ Omi không người ngủ. Bà đang ngồi thẳng cứng gần hốc tường nhỏ có hoa. Một cửa shoji nhỏ mở ra vườn. Midori, vợ của Omi đối diện bà.
Kiku quỳ xuống. Phải chăng mới chỉ một đêm trước ta còn ở đây và kinh hoàng trong những tiếng gào thét? Nàng cúi chào, trước tiên mẹ của Omi, rồi vợ anh ta. Cảm thấy được sự căng thẳng giữa hai người đàn bà, nàng tự hỏi không hiểu vì sao luôn luôn có sự xung đột giữa mẹ chồng và nàng đâu? Đến một lúc, phải chăng nàng dâu cũng trở thành mẹ chồng? Tại sao lúc đó bà ta lại mắng nhiếc sỉ vả con dâu và làm cho đời cô gái trở thành khổ cực và tại sao cô gái đó đến lượt mình cũng lại làm như vậy? Không ai học được điều gì sao?
"Con xin lỗi làm phiền bà, thưa bà."
"Chào cô, Kiku-san", bà già trả lời.
"Ta hi vọng không có chuyện gì chứ?"
"Ồ không, nhưng con không biết bà có muốn đánh thức ngài? nàng nói, và đã biết trước câu trả lời.
"Em thiết nghĩ nên hỏi phu nhân, thưa Midori-san", nàng quay lại mỉm cười và khẽ chào Midori, nàng rất thích Midori.
"Phu nhân đã trở về."
Bà già nói.
"Cô rất tốt, Kiku-san, và rất chu đáo. Không, cứ để cho nó ngủ."
"Dạ vâng. Xin tha lỗi đã làm phiền bà và phu nhân. nhưng con nghĩ con nên hỏi. Midori-san, em hi vọng chuyến đi của phu nhân tốt đẹp?"
"Rất lấy làm tiếc, chuyến đi thật khủng khiếp", Midori nói.
"Tôi sung sướng được trở về và rất ghét phải đi. Chồng tôi có khỏe mạnh không?"
"Dạ, rất khỏe. Ngài cười nhiều tối nay và hình như rất vui. Ngài ăn uống chừng mực và ngài ngủ say."
"Bà lớn vừa kể cho tôi nghe một đôi điều khủng khiếp đã xảy ra trong khi tôi đi vắng và..."
"Đáng lý chị không nên đi. Chị cần phải ở đây." Bà già ngắt lời, giọng cay độc." Hay có lẽ không? Có lẽ chị cứ đi mãi đi thì hơn. Có lẽ chị đã mang lại một kami xấu vào nhà này cùng với chăn nệm của chị."
"Con không bao giờ làm như thế cả, thưa mẹ", Midori nói một cách kiên nhẫn.
"Xin mẹ hãy tin là con thà tự tử còn hơn đem một vết ố nhỏ nhất vào thanh danh nhà ta. Xin mẹ tha thứ cho sự vắng mặt và lỗi lầm của con. Con xin lỗi."
"Kể từ khi cái tàu quỷ sứ đến đây, chúng ta gặp biết bao nhiêu là chuyện phiền phức. Đó là kami rủi. Chị ở đâu lúc người ta cần đến chị? Ngồi lê đôi mách ở Mishima, tọng cho đầy bụng và uống sake."
"Thưa mẹ, cha con chết. Một ngày trước khi con về."
"Hứ, chị cũng không biết lễ nghĩa, hay nhìn xa để túc trực bên giường bệnh của cha mình, chị đi khỏi nhà tôi vĩnh viễn sớm ngày nào tốt cho chúng tôi ngày ấy. Tôi cần ít trà. Chúng ta đang có khách ở đây mà chị cũng không biết lễ nghi cho cô ấy đỡ khát."
"Con đã ra lệnh ngay khi khách..."
"Bây giờ cũng đã có gì đâu!"
Cửa shoji mở. Một người hầu gái sợ sệt mang trà và vài cái bánh ngọt. Trước tiên Midori mời bà già, bà chửi mắng người đầy tớ tàn tệ, nhai móm mém một cái bánh, uống trà xì xụp.
"Kiku-san, cô thứ lỗi cho con hầu", bà già nói." Chà thật đoảng vị. Đoảng vị! Bỏng cả lưỡi! Tôi nghĩ nhà này chỉ có được những thứ như thế thôi."
"Dạ đây, mẹ lấy chén của con", Midori khe khẽ thổi chén trà để cho nó nguội bớt.
Bà già miễn cưỡng cầm lấy chén trà." Tại sao không tốt ngay lần đầu?" Bà yên lặng một cách cau có.
"Cô nghĩ sao về tất cả những điều này?" Midori hỏi Kiku.
"Con tàu và Yabu Sama, và Toda Hiromatsu Sama?"
"Em cũng không biết nghĩ như thế nào. Còn đối với bọn rợ thì ai mà biết được. Rõ ràng họ là một nhóm người đặc biệt. Còn vị Daimyo vĩ đại, Quả Đấm Sắt? Thật là một diều lạ, ông ấy đến gần như cùng một lúc với chúa Yabu, phải không ạ? Dạ, em xin lỗi, em xin cáo từ."
"Ồ, không, Kiku-san, tôi không nghe thế đâu."
"Đấy, chị thấy chưa, Midori-san", bà già ngắt lời một cách sốt ruột." Khách của chúng ta thấy không thoải mái và trà thì thật là kinh khủng."
"Dạ con thấy trà ngon, thưa bà lớn, thật đấy ạ. Dạ, bà lớn và phu nhân tha lỗi, con hơi mệt. Có lẽ ngày mai trước khi đi, con có thể được phép lại thăm bà lớn. Được nói chuyện với bà lớn bao giờ cũng là một niềm vinh dự."
Bà già tự để cho mình được phỉnh phở. Kiku theo Midori ra hiên, vào trong vườn.
"Kiku-san, cô thật chu đáo quá. Midori vừa nói vừa giữ lấy cánh tay Kiku, lòng ấm lại vì nhan sắc của nàng.
"Cô thật tốt quá. Cám ơn cô."
Kiku nhìn lại ngôi nhà một thoáng và run lên:
"Bà ấy luôn luôn như thế sao?"
"Đêm nay bà còn lịch sự so với những hôm khác. Nếu không vì Omi và con trai, tôi thề đã rũ bụi của bà khỏi chân tôi, cắt tóc đi tu. Nhưng tôi còn Omi và con trai tôi. và như vậy đã đền bù được mọi thứ. Tôi cám ơn tất cả các kami vì điều ấy. May sao, bà lớn thích Yedo hơn và không thể rời khỏi đó lâu được." Midori cười buồn.
"Tôi đã luyện để không nghe, cô biết rồi đấy." Nàng thở dài, rất đẹp trong ánh trăng.
"Nhưng điều đó không quan trọng. Hãy kể cho tôi nghe những gì đã xảy ra từ khi tôi đi."
Chính vì thế mà Kiku đã tới khẩn cấp như vậy, vì rõ ràng cả bà mẹ lẫn người vợ không ai muốn giấc ngủ của Omi bị quấy rối. Nàng đến để kể cho phu nhân Midori kiều diễm nghe mọi chuyện để phu nhân có thể giúp bảo vệ Kasagi Omi như bản thân nàng đã cố gắng.
Nàng đã kể cho phu nhân nghe tất cả những điều nàng biết, trừ điều xảy ra trong phòng với Yabu. Nàng nói thêm những tin đồn nàng đã nghe được và những chuyện các cô gái khác đã nói đến tai nàng hoặc bịa ra. Và tất cả những điều Omi đã nói với nàng - những hy vọng, những nỗi lo sợ, những kế hoạch của anh ta - mọi thứ về anh ta, chỉ trừ những điều đã xảy ra trong phòng đêm nay. Nàng biết điều ấy không quan trọng đối với vợ anh ta.
"Kiku-sanạ, tôi sợ, tôi sợ cho chồng tôi."
"Thưa phu nhân, tất cả những điều chàng khuyên đều khôn ngoan. Em nghĩ tất cả những điều chàng làm đều đúng. Chúa Yabu không thưởng cho ai một cách dễ dàng, ba nghìn Koku là một sự tăng đáng kể."
"Nhưng con tàu bây giờ là của chúa Toranaga và tất cả số tiền đó."
"Vâng, nhưng đối với Yabu Sama, tặng con tàu là một ý nghĩ thiên tài. Omi-san gợi ý ấy cho Yabu - rõ ràng bản thân nó cũng đủ để trả công rồi, đúng không ạ? Omi-san phải được thừa nhận là một chư hầu tốt." Kiku bóp méo sự thật, nàng vẫn biết Omi đang trong vòng nguy hiểm lớn, cả nhà anh ta nữa. Cái gì phải đến sẽ đến, nàng tự nhủ. Nhưng làm giãn vầng trán cao của một thiếu phụ xinh đẹp cũng chẳng hại gì.
"Vâng, tôi có thể thấy được điều đó", Midori nói. Hãy để cho nó là sự thật, nàng cầu nguyện. Xin hãy để cho nó là sự thật. Nàng ôm lấy cô gái, mắt đẫm lệ.
"Cám ơn cô. Cô thật nhân từ, Kiku-san, nhân từ quá." Nàng mười bảy tuổi.
Bạn cần đăng nhập để bình luận