Shogun Tướng Quân
Chương 3
Yabu ngâm người trong nước nóng, thoải mái, tự tin hơn bất cứ lúc nào. Con tàu đã lộ sự giàu có của nó và sự giàu có này sẽ cho lão quyền uy mà lão chưa bao giờ dám mơ ước.
"Ta muốn ngày mai tất cả mọi thứ được đem lên bờ", lão nói.
"Đặt súng vào chỗ cũ. Ngụy trang tất cả mọi thứ bằng lưới hoặc vải bao bố..."
Năm trăm khẩu hỏa mai, lão sảng khoái nghĩ. Với nhiều thuốc súng và đạn hơn cả tám tỉnh của Toranaga gộp lại. Và hai mươi khẩu đại bác, năm ngàn quả đạn đại bác. Với vô vàn vũ khí đạn dược. Tên lửa. Loại tốt nhất Châu Âu!
"Mura, anh sẽ cung cấp phu khuân vác. Igurashi-san, ta muốn tất cả vũ khí này, kể cả đại bác, được bí mật đưa lên lâu đài của ta ngay lập tức. Anh sẽ phải chịu trách nhiệm!"
"Thưa chúa công, vâng..."
Bọn họ ở trong khoang chính của tàu và mọi người há hốc mồm nhìn Igurashi, một anh chàng chột, cao lớn, mềm mại, hầu cận thân tín của lão. Zukimoto, sĩ quan cận vệ, cùng với năm người làng mồ hôi mồ kê nhễ nhại đã mở những thùng đồ dưới sự giám sát của Mura và bốn Samurai vệ sĩ. Lão biết họ không hiểu được niềm hoan hỉ của lão hoặc sự cần thiết phải bí mật. Tốt, lão nghĩ.
Khi những người Portugal lần đầu tiên phát hiện ra Nhật Bản năm 1542, họ đã đưa súng hỏa mai và thuốc súng vào. Trong vòng mười tám tháng, người Nhật đã chế tạo được những thứ đó. Chất lượng chưa tốt bằng của Châu Âu nhưng không sao, bởi vì súng được coi như của mới và trong một thời gian dài, chỉ dùng để đi săn. Và ngay cả săn nữa thì cung tên cũng chính xác hơn nhiều. Và nữa, điều quan trọng hơn là, chiến tranh của Nhật Bản hầu như theo nghi thức, đánh nhau đằng thẳng bằng tay, thanh kiếm là vũ khí danh dự nhất. Việc sử dụng súng được coi như hèn nhát, không có danh dự và hoàn toàn ngược với điều luật của Samurai, bushiđô võ sĩ đạo, buộc người Samurai chiến đấu với danh dự, sống còn với danh dự và chết với danh dự, tin tưởng tuyệt đối không hề thắc mắc với chúa của mình; không sợ chết - thậm chí còn tìm tới cái chết trong việc làm của mình; tự hào với tên tuổi của mình và giữ gìn cho nó không bị vấy bẩn.
Từ nhiều năm, Yabu đã có một kế hoạch bí mật Rồi đây, lão suy nghĩ một cách sảng khoái, mình có thể triển khai và thực hiện nó: năm trăm Samurai chọn lọc trang bị bằng hỏa mai và sẽ được huấn luyện thành một đơn vị, làm mũi nhọn cho mười hai nghìn quân, được hỗ trợ bằng hai mươi đại bác sử dụng một cách đặc biệt bởi những người đặc biệt, cũng được huấn luyện thành đơn vị. Một chiến lược mới cho một kỷ nguyên mới! Trong cuộc chiến tranh tới, súng có thể là quyết định.
Còn bushiđô thì sao? Hồn ma của tổ tiên lão luôn hỏi lão.
Còn bushiđô thì sao? Lão cũng luôn hỏi lại họ.
Họ không bao giờ trả. lời..
Trong giấc mơ điên cuồng của mình, cũng không bao giờ lão nghĩ được rằng mình có thể có được năm trăm súng. Nhưng bây giờ, không mất gì mà có, và lại chỉ mình lão biết sử dụng - nhưng sử dụng chúng cho bên nào? Toranaga hay Ishido? Hay hãy chờ đã? Và có lẽ lão sẽ là người chiến thắng cuối cùng?
"Igurashi-san. Anh hãy đi ban đêm và giữ an toàn tuyệt đối..."
"Thưa chúa công, vâng..."
"Phải giữ bí mật, Mura, nếu không thì cả làng này sẽ bị xóa xạch."
"Sẽ không một điều gì được nói ra hết, thưa chúa công. Tôi có thể bảo lĩnh cho làng tôi. Tôi không thể bảo lĩnh cho cuộc hành trình hoặc cho những làng khác. Ai biết chỗ nào có gián điệp? Nhưng chúng tôi sẽ không nói ra điều gì hết..."
Sau đó Yabu vào phòng bọc sắt. Nó chứa những thứ mà lão cho là những đồ cướp bóc được của bọn hải tặc: bạc, đĩa vàng, cốc tách, chúc đài, những đồ trang trí, vài bức họa tôn giáo trong những khung nạm vàng. Một ngăn kéo đựng quần áo phụ nữ được thêu rất khéo léo bằng chỉ vàng và đính đá mầu.
"Ta sẽ nấu chảy bạc vàng thành thỏi và để trong kho", Zukimoto nói. Ông là một con người gọn ghẽ, mô phạm, tuổi tứ tuần, không phải là Samurai. Nhiều năm trước đây ông là một tăng lữ võ sĩ Phật giáo, nhưng Taiko, Quan Bảo Quốc, đã san bằng tu viện của ông trong một chiến dịch làm trong sạch những vùng đất của số tu viện và giáo phái không thừa nhận quyền tôn chủ tuyệt đối của ông ta. Zukimoto đã phải hối lộ để thoát chết và trở thành người bán hàng rong, sau đó làm người buôn gạo nhỏ. Mười năm trước đây, ông tham gia Cục Quân nhu của Yabu. Và bây giờ thì không thể thiếu ông được.
"Còn như quần áo, có lẽ chỉ vàng và ngọc chạm là có giá trị. Nếu chúa công cho phép, tôi sẽ đóng gói và gửi về Nagasaki cùng tất cả những thứ khác tôi đã cứu được." Cửa bể Nagasaki ở miền biển cực Nam của đảo, phía Nam Kyushu là trung tâm xuất nhập khẩu hợp pháp và thị trường buôn bán của Portugal." Bọn rợ có thể trả khá tiền cho những thứ tạp nham này."
"Tốt. Thế còn những kiện hàng ở trong khoang kia?"
"Tất cả đều chứa nặng vải vóc, thưa chúa công, hoàn toàn vô dụng đối với chúng ta, nó không có giá trị thị trường gì hết. Nhưng cái này chắc có giá trị với ngài", Zukimoto mở hộp sắt.
Chiếc hộp đựng hai mươi nghìn thoi bạc đúc, tiền vàng Spain. Loại thượng hảo hạng.
Yabu cựa mình trong bồn tắm. Lão lau mồ hôi mặt và cổ bằng một chiếc khăn tắm nhỏ và nhấn người sâu hơn vào làn nước thơm nóng. Nếu ba ngày trước đây, lão tự nhủ, một tên thầy bói đoán những điều ấy sẽ xảy ra thì mình hẳn đã vả vào miệng hắn vì tội nói láo.
Ba hôm trước, lão đã ở Yedo, thủ phủ của Toranaga. Thư của Omi tới lúc hoàng hôn. Rõ ràng, con tàu phải được điều tra ngay lập tức, nhưng Toranaga vẫn còn ở Osaka trong cuộc đối đầu lần chót với tướng quân lãnh chúa Ishido, và trong lúc Toranaga đi vắng, Yabu và tất cả các Daimyo lân bang thân hữu được mời đến, đợi ông ta trở về. Một lời mời như vậy không thể bị từ chối mà không gây ra những hậu quả tai hại. Yabu biết, lão và những Daimyo độc lập và gia đình của họ chỉ là để bảo hộ thêm cho sự an toàn của Toranaga. Mặc dù, cái từ ngữ đó không bao giờ được dùng, nhưng thực chất họ là những con tin, bảo đảm sự an toàn ở Osaka, pháo đài bất khả chiến thắng của kẻ thù, nơi cuộc họp được tổ chức. Toranaga là chủ tịch Hội đồng Nhiếp chính, Taiko đã chỉ định lúc lâm chung, để cai trị cả đế quốc trong khi con trai Yaemon của ông ta lúc đó mới bảy tuổi. Tất cả có năm quan Nhiếp chính, đều là những Daimyo lừng danh. Nhưng chỉ Toranaga và Ishido là thực sự có sức mạnh.
Yabu đã cân nhắc cẩn thận, đầy đủ mọi lý do để đi Anjiro, tính cả những nguy hiểm, và những lý do để ở lại. Sau đó lão đã gọi vợ cả và vợ bé yêu quý của lão lại. Vợ bé là người tình được pháp luật công nhận chính thức. Một người đàn ông muốn có bao nhiêu vợ bé cũng được, nhưng chỉ được phép ở với một người trong từng thời gian mà thôi.
"Cháu Omi của tôi vừa bí mật nhắn tin, có một chiếc tàu của bọn rợ đến bến Anjiro."
"Một trong những chiếc Black Ship sao?" Vợ lão hồi hộp hỏi. Có những chiếc tàu buôn khổng lồ, giàu có không sao tưởng tượng nổi, hằng năm vào những dịp gió mùa, chạy giữa Nagasaki và Macao của Portugal, cách gần một ngàn dặm về phía Nam Trung Hoa lục địa.
"Không. Nhưng hẳn phải giàu có. Tôi phải đi ngay bây giờ. Nàng sẽ nói tôi bị ốm và không thể bị quấy rầy bởi bất cứ lý do gì. Tôi sẽ trở lại trong vòng năm ngày..."
"Như vậy cực kỳ nguy hiểm", vợ lão cảnh giác.
"Lãnh chúa Toranaga ra lệnh đặc biệt cho chúng ta ở yên tại chỗ. Em chắc một lần nữa ngài sẽ thỏa hiệp với Ishido và ngài quá hùng mạnh để ta làm phật ý. Thưa tướng công, chúng ta không bao giờ có thể đoán chắc là không có một người nào đó nghi ngờ, do thám ở khắp nơi. Nếu Toranaga trở lại và biết tướng công đã đi, sự vắng mặt đó sẽ bị thuyết minh sai lạc. Kẻ thù của tướng công sẽ đầu độc đầu óc của chúa, rất có hại cho tướng công..."
"Đúng thế", vợ bé của lão nói thêm.
"Xin tướng công tha lỗi, nhưng ngài phải nghe phu nhân. Bà nói đúng. chúa Toranaga sẽ không bao giờ tin tướng công bất tuân lệnh chỉ để nhìn một con tàu của rợ. Xin tướng công sai người khác."
"Nhưng đây không phải là con tàu bình thường của rợ. Không phải Portugal. Hãy nghe ta nói. Omi nói là của một nước khác. Ba người nói ba thứ tiếng khác nhau và họ có mắt xanh, tóc vàng..."
"Omi điên rồi. Hay anh ta uống quá nhiều sake." Bà vợ lão nói.
"Điều này quả thực là quan trọng cho Chúa và cho tướng công."
Vợ lão đã cúi chào, xin lỗi và nói lão hoàn toàn đúng khi sửa lại sai lầm của bà ta, nhưng nhận định đó không phải là đùa cợt. Bà ta, một người nhỏ bé, gầy còm, hơn lão mười tuổi, người mà tám năm liền mỗi năm đã cho lão một đứa con cho đến khi bụng khô cạn, năm đứa là con trai, ba đã trở thành lính chiến và đã chết anh dũng trong cuộc chiến tranh chống Trung Quốc, một đứa khác là nhà tu của đạo Phật và đứa cuối cùng, mười chín tuổi, đã bị lão ghét bỏ.
Vợ lão, phu nhân Yuriko, là người phụ nữ duy nhất sợ lão, người phụ nữ duy nhất lão coi trọng - ngoài mẹ lão đã chết - và bà ta cai trị ngôi nhà bằng một cái roi lụa.
"Xin tướng công một lần nữa tha lỗi." Bà ta nói.
"Omi-san có nói tỉ mỉ về hàng hóa không?."
"Không. Nó không xem, Yuriko-san ạ. Nó nói đã niêm phong lại ngay bởi vì con tàu quá bất bình thường. Trước đây không hề có con tàu nào không phải của Spain, nhỉ? Nó cũng nói đó là một tàu chiến đấu. Hai mươi khẩu đại bác trên boong..."
"A! Thế thì phải có người nào đi ngay."
"Tôi sẽ đi ngay."
"Xin tướng công xét lại. Cử Mizuno đi. Em trai của tướng công khôn ngoan tài trí. Em xin chàng đừng đi..."
"Mizuno yếu đuối và không thể tin tưởng được..."
"Thế thì ra lệnh cho chú ấy phải seppuku đi cho xong", bà ta nói gay gắt. Seppuku, đôi khi gọi là harakiri, tự tử theo nghi thức mổ bụng, đó là cách duy nhất một Samurai có thể sửa được một nỗi nhục, một tội lỗi một sai lầm trong danh dự và đó là một đặc quyền dành riêng cho đẳng cấp võ sĩ đạo. Tất cả những Samurai đàn bà cũng như đàn ông - đều được chuẩn bị từ lúc ấu thơ, để hoặc chính mình hoặc tham gia vào các nghi lễ như một người phụ tá. Phụ nữ làm seppuku bằng một con dao đâm vào cổ họng.
"Sau đó, bây giờ thì chưa", Yabu nói với vợ.
"Vậy hãy cử Zukimoto. Anh này chắc chắn là tin được."
"Nếu Toranaga không ra lệnh cho tất cả các bà vợ và vợ bé cũng phải ở lại đây, thì ta đã cử nàng Yuriko-san, nàng nói kho của ta đã rỗng. Nàng nói ta không còn tiền gửi bọn cho vay tiền bẩn thỉu nữa. Zukimoto nói chúng ta sẽ phải thu thuế tối đa nông dân của ta. Tôi cần phải có nhiều ngựa, đạn dược, vũ khí và nhiều Samurai hơn. Có lẽ con tàu đó sẽ cung cấp được..."
"Lệnh của Lãnh chúa Toranaga hoàn toàn rõ ràng, thưa tướng công. Nếu ngài quay lại và thấy..."
"Đúng. Nếu ngài quay lại, thưa bà. Ta vẫn nghĩ là ngài đã đưa mình vào bẫy. Chúa Ishido có tám mươi ngàn Samurai ở lâu đài Osaka. Toranaga đến đó với vài trăm người là hành động của một người điên..."
"Ngài là người quá khôn ngoan, không thể liều mình vô ích như vậy..." Bà nói một cách tự tin.
"Nếu ta là Ishido, mà lại nắm được Toranaga như thế, ta sẽ giết ngay lập tức..."
"Đúng", Yuriko nói.
"Bà mẹ của công tử thừa kế vẫn còn bị giữ làm con tin ở Yedo cho đến khi Toranaga trở về. Lãnh chúa Ishido không dám đụng đến Toranaga."
"Ta thì ta sẽ giết ông ấy. Lệnh bà Ochiba sống hay chết cũng mặc, không hề gì. Công tử thừa kế vẫn an toàn ở Osaka. Toranaga mà chết thì việc kế nghiệp là chắc chắn. Toranaga là mối đe dọa thực sự, duy nhất cho công cuộc thừa kế. Ông ta là người duy nhất có thể sử dụng Hội đồng Nhiếp chính, lật đổ uy quyền của Taiko và giết đứa bé..."
"Xin tướng công tha lỗi, nhưng có lẽ nào Chúa công Ishido có thể kéo ba quan Nhiếp chính theo mình, buộc Toranaga vào trọng tội, và thế là hết đời Toranaga, hả?" Vợ bé của lão nói.
"Thưa bà, đúng thế. Nếu Ishido có thể làm được, ông ta đã làm, nhưng tôi không dám nghĩ ông ta có thể làm được, cả Toranaga cũng không thể. Taiko đã chọn năm quan Nhiếp chính rất khéo. Họ ghét nhau thậm tệ, đến độ không thể đồng ý với nhau bất cứ điều gì. Trước khi nắm quyền, năm vị Daimyo lớn đã công khai thề trung thành với Taiko đang hấp hối, với con trai ông, với dòng dõi của ông đời đời. Họ đã tuyên thệ công khai với lời thề thiêng liêng về sự cai trị thống nhất trong Hội đồng, thề sẽ chuyển giao nguyên vẹn vương quốc này cho Yaemon khi cậu tròn mười lăm tuổi. Sự cai trị thống nhất có nghĩa là, không gì có thể thay đổi cho đến khi Yaemon kế nghiệp..."
"Nhưng, thưa tướng công, một ngày nào đó, bốn quan Nhiếp chính sẽ liên kết chống lại một - vì ghen tuông, vì sợ hãi hay tham vọng - phải không ạ? Bốn người kia sẽ bẻ cong lệnh của Taiko đủ để đưa đến một cuộc chiến, phải không ạ?"
"Phải. Nhưng nó sẽ là một cuộc chiến tranh nhỏ, thưa bà, và một kẻ nào đó sẽ bị đập nát, đất của ông ta sẽ bị phân chia cho những người chiến thắng, lúc đó họ sẽ phải chỉ định một quan Nhiếp chính thứ năm và rốt cuộc rồi sẽ bốn chống một, và một đó sẽ lại bị đập nát và đất của ông ta sẽ bị thu - tất cả đúng như Taiko đã vạch trước. Vấn đề của ta là quyết định xem lần này ai sẽ là một đó. Ishido hay Toranaga?"
"Toranaga sẽ là người bị cô lập..."
"Tại sao?"
"Những người khác rất sợ ông ta bởi vì tất cả đều ngầm hiểu ông ta muốn làm Shogun, cho dù ông ta vẫn khăng khăng là không có ý ấy..."
Shogun là cấp bậc cao nhất mà một người có thể đạt được ở Nhật Bản. Shogun nghĩa là nhà độc tài quân sự tối cao. Chỉ một Daimyo có thể đạt được tước hiệu đó. Và chỉ có đức Thánh thượng - Thiên Hoàng đang trị vì - Thiên tử sống biệt lập cùng với hoàng tộc ở Kyoto, mới có thể phong tước hiệu đó.
Được chỉ định chức Shogun kèm theo quyền hành tuyệt đối: ấn tín và ủy trị của Thiên Hoàng - Shogun trị vì với danh nghĩa của Thiên Hoàng. Tất cả quyền bính đều từ Thiên Hoàng bởi vì người từ các vi thần linh trên trời giáng hạ. Do đó bất cứ một Daimyo nào chống lại Shogun thì mặc nhiên có nghĩa là nổi loạn chống lại nhà vua và lập tức bị loại bỏ, tất cả đất đai bị tịch biên. Thiên Hoàng trị vì được thờ phụng như một thần linh bởi vì người được truyền xuống từ dòng giống không hề biết gián đoạn của nữ thần Mặt trời, Amaterasu Omikami, một trong những người con của hai vị thần Izanagi và Izanami, những người đã tạo ra những bán đảo Nhật Bản từ bầu trời. Theo quyền thiêng liêng, Thiên Hoàng nắm giữ tất cả đất đai, để trị vì và được tuân lệnh vô điều kiện. Nhưng trên thực tế, hơn sáu thế kỷ nay, quyền bính thực sự ở phía sau ngai vàng.
Sáu thế kỷ trước đây, đã có một cuộc ly giáo, hai trong số ba gia đình Samurai lớn, gia đình Minowara, Fujimoto và Takashima kình địch nhau, ủng hộ những kẻ đòi nhường ngôi và nhận chìm quốc gia này trong nội chiến. Sau sáu mươi năm, gia đình Minowara đè bẹp gia đình Takashima, còn gia đình Fujimoto đứng trung lập đợi thời cơ.
Từ đó, để khư khư giữ lấy sự thống trị của mình, các Shogun nhà Minowara đã thống trị vương quốc, ban luật thừa kế Shogun và bắt đầu gả lẫn con gái của họ trong dòng Hoàng tộc. Thiên Hoàng và toàn bộ triều đình bị cô lập hoàn toàn trong những cung điện và ngự uyển, kín cổng cao tường trên khoảnh đất nhỏ lọt vào giữa Kyoto, hầu như lúc nào cũng nghèo túng, hoạt động của họ chỉ bó hẹp trong việc tế lễ thần đạo Shito, tôn giáo duy linh cổ xưa của Nhật Bản và các công việc tri thức như thuật viết chữ, hội họa, triết học và thi ca.
Triều đình của Thiên tử rất dễ bị chế ngự bởi vì, dù có toàn bộ đất đai nhưng lại không có lợi tức.
Chỉ có Daimyo và Samurai có lợi tức và có quyền đánh thuế. Vì vậy, mặc dù tất cả những người trong triều đình, về cấp bậc đều cao hơn các Samurai, nhưng họ chỉ tồn tại nhờ tiền lương thường kỳ được cung cấp cho triều đình, do ý thích bấp bênh của các Shogun, kwanpaku - quan Tổng cố vấn, hay viên tướng thống lĩnh lúc đó. Rất ít người hào phóng. Một số vị Thiên Hoàng đã phải đổi chữ ký lấy thức ăn. Nhiều làn họ còn không đủ tiền để làm lễ đăng quang.
Cuối cùng, các Shogun nhà Minowara mất về tay người khác, về tay các con cháu của Takashima hoặc Fujimoto. Và những cuộc nội chiến ngày càng tiếp diễn liên miên, không ngừng nghỉ từ thế kỷ này sang thế kỷ khác. Thiên Hoàng ngày càng trở thành công cụ trong tay một Daimyo đủ mạnh để có thể làm chủ được Kyoto. Khi một người mới chinh phục được Kyoto - bất kể người đó là Minowara, Takashima hay Fujimoto - đều cung kính thề trung thành với nhà vua và cung kính xin Thiên Hoàng không chút quyền lực ban cho mình chức Shogun còn để trống rồi cũng giống như những người trước, ông ta cố gắng mở rộng sự thống trị của mình ra ngoài Kyoto, cho đến khi bản thân ông ta lại bị nuốt chửng bởi một người khác. Thiên Hoàng lấy vợ, nhường ngôi, hay lên ngôi theo sở thích của các Shogun. Nhưng huyết thống của Thiên Hoàng trị vì là bất khả vi phạm và không thể uốn queo được.
Như vậy Shogun là quyền hành tuyệt đối cho đến khi bi lật đổ. Nhiều người bị hất khỏi địa vị của mình qua nhiều thế kỷ, khi vương quốc bị tách ra thành những phần nhỏ hơn. Trong một trăm năm qua, không một Daimyo nào có đủ sức mạnh để trở thành Shogun. Mười hai năm trước, tướng nông dân Nakamura đã nắm được quyền bính và đã đạt được sự ủy trị của Thiên Hoàng đương thời Gonijo. Nhưng Nakamura không được phong Shogun mặc dù ông ao ước đến mấy, vì ông xuất thân là nông dân. Ông đành phải bằng lòng với tước hiệu kém hơn: kwanpaku, Tổng cố vấn, và sau đó nhường tước hiệu đó cho đứa con nhỏ - Yaemon - mặc dù nắm tất cả quyền bính, nhưng phong tục đã định, ông đã phải bằng lòng với Taiko. Theo phong tục lịch sử, chỉ các con cháu của những gia đình cổ, Á thánh của Minowara và Fujimoto mới lên được Shogun.
Toranaga thuộc dòng Minowara. Yabu cũng có thể nhận là một nhánh nhỏ và mơ hồ của dòng Takashima, để đủ có một chút liên quan, nếu như có bao giờ lão lên được địa vị tối cao.
"Vâng, thưa bà", Yabu nói." Tất nhiên Toranaga muốn làm Shogun, nhưng ông ta sẽ không bao giờ đạt được. Các quan Nhiếp chính khác ghét và sợ ông ta. Họ cô lập ông ta, như kế hoạch Taiko đã vạch sẵn..." Lão nghiêng người về phía trước, quan sát vợ cẩn thận:
"Nàng nói Toranaga sẽ mất về tay Ishido ư?"
"Ông ấy sẽ bị cô lập, đúng. Nhưng thưa tướng công, cuối cùng em không nghĩ ông ấy sẽ thất bại. Em xin tướng công đừng bất tuân chúa Toranaga và đừng rời Yedo chỉ để xem con tàu của lũ rợ, dù cho Omi-san có nói nó lạ đến thế nào chăng nữa. Xin hãy cử Zukimoto đi Anjiro..."
"Thế ngộ tàu có vàng nén thì sao? Bạc hoặc vàng? Nàng liệu có tin Zukimoto hay bất cứ sĩ quan nào của chúng ta trong chuyện này không?"
"Không!.", vợ lão nói.
Vậy là tối hôm ấy, lão đã bí mật đi khỏi Yedo, chỉ đem theo năm mươi người. Và giờ đây lão đã có của cải và sức mạnh hơn cả trong mơ, những tù nhân độc đáo, một tên sẽ chết đêm nay. Lão sắp xếp một cô gái lầu xanh và một thằng bé sẵn sàng sau đó. Bình minh sáng ngày mai, lão sẽ trở lại Yedo. Hoàng hôn ngày mai, súng ống và vàng bạc sẽ bắt đầu cuộc hành trình bí mật của chúng.
I i i ì, súng! Lão sảng khoái nghĩ. Súng và kế hoạch sẽ kết hợp cho ta sức mạnh để quyết định Ishido hay Toranaga thắng - tuỳ ý ta. Rồi ta sẽ trở thành một quan nhiếp chính, thế vào chỗ của người thua, phải không nào? Rồi trở thành quan nhiếp chính mạnh nhất. Mà sao không phải là một Shogun? Đúng. Bây giờ thì tất cả đều có thể được.
Lão thả mình vào mơ mộng, đê mê. Sử dụng hai mươi ngàn thoi bạc như thế nào đây? Lão có thể xây dựng lại thành lũy của lâu đài. Mua những con ngựa đặc biệt kéo pháo. Và mở rộng mạng lưới điệp viên. Còn Ikaoa Jikkiu thì sao? Liệu một ngàn thoi bạc có đủ mua chuộc đầu bếp của Ikaoa Jikkiu để đầu độc hắn ta không? Quá đủ đi! Năm trăm, thậm chí một trăm, nếu đưa đúng người, cũng là nhiều. Ai bây giờ?
Nắng chiều xiên qua cửa sổ nhỏ của bức tường đá. Nước tắm rất nóng và được đun từ bên kia bức tường. Đây là nhà tắm của Omi. Nhà dựng trên một ngọn đồi nhỏ, trông ra làng và bến cá. Mảnh vườn bên trong gọn ghẽ, thanh tao và cân xứng.
Cửa phòng tắm mở. Một người mù cúi chào.
"Thưa tướng công, ngài Kasigi Omi phái tôi đến. Tôi là Suwo, người xoa bóp của ngài Omi..."
Ông ta cao, rất gầy, và già, nét mặt nhăn nheo.
"Tốt..." Yabu luôn luôn có nỗi kinh sợ bị mù. Chừng nào có thể nhớ lại được, lão đã từng có những giấc mơ, tỉnh dậy trong bóng tối, vẫn biết là có nắng, cảm thấy được cái ấm áp, nhưng không nhìn được, mở miệng ra để kêu, biết kêu là nhục nhã, ấy vậy mà vẫn kêu thét. Rồi tỉnh hẳn, mồ hôi vã ra.
Những nỗi kinh hoàng bị mù hình như làm tăng khoái lạc của lão khi được một người mù xoa bóp.
Lão có thể nhìn thấy vết sẹo nhiều cạnh lởm chởm trên trán phải của người đàn ông và đường nứt sâu ở phía dưới sọ. Đó là vết chém của kiếm, lão tự nhủ. Có phải đó là nguyên nhân gây ra sự mù lòa của hắn không? Có phải hắn cũng đã có một thời là Samurai? Cho ai? Hắn có phải là một tên điệp viên không?
Yabu biết, người đàn ông này đã bị cận vệ của lão lục soát kỹ lưỡng trước khi được phép vào, bởi vậy không sợ có vũ khí giấu bên trong. Thanh trường kiếm của lão trong tầm tay với, lưỡi kiếm cổ được rèn bởi người thợ luyện kiếm bậc thầy Mura Sama. Lão nhìn ông già mù cởi bỏ chiếc kimono vải bông của ông ta, mắc nó lên không cần tìm cái mắc. Có nhiều vết chém bằng kiếm trên ngực ông. Cái khố của ông rất sạch. Ông quỳ xuống, kiên nhẫn đợi.
Yabu ra khỏi bồn tắm và nằm trên chiếc ghế đá dài. Ông già mù cẩn thận lau người cho Yabu. Xoa dầu thơm vào tay và bắt đầu xoa bóp những cơ bắp trên cổ và lưng của vị Daimyo.
Sự căng thắng biến dần đi khi những ngón tay mạnh khỏe lướt chà trên người lão, ấn sâu với một sự khéo léo đến ngạc nhiên.
"Tốt Tốt quá." Một lúc sau lão nói.
"Cám ơn, Yabu Sama." Suwo nói. Sama có nghĩa là chúa công, đó là sự lịch sự bắt buộc khi nói với một bề trên.
"Ngươi phục vụ Omi-san đã lâu chưa?"
"Ba năm, thưa ngài. Ông ấy rất tốt đối với người già."
"Thế trước đó?"
"Tôi đi lang thang từ làng này đến làng khác. Một vài ngày ở đây, nửa năm ở kia, như một con bướm theo hơi thở của mùa hè." Giọng nói Suwo như ru, như đôi bàn tay ông. Ông quyết định, vị Daimyo này muốn ông nói, và ông đợi một cách kiên nhẫn câu hỏi tiếp theo, rồi ông sẽ bắt đầu nói. Một phần nghệ thuật của ông là biết người ta sẽ cần cái gì và khi nào. Đôi khi đôi tay ông mách bảo điều đó, nhưng dường như chính những ngón tay ông đã mở khóa điều bí mật của tâm hồn người đàn ông và đàn bà. Những ngón tay mách bảo cho ông biết hãy coi chừng con người này, lão ta nguy hiểm và chất chưởng, tuổi của lão chừng bốn mươi, một kị sĩ giỏi và một tay kiếm tuyệt luân. Ông già còn biết, gan lão yếu và chỉ hai năm nữa thôi, lão sẽ chết. Rượu sake và lòng dục sẽ giết lão."Ở tuổi của ngài, ngài rất khỏe, thưa Yabu Sama..."
"Ngươi cũng thế. Ngươi bao nhiêu tuổi, Suwo?"
Ông lão cười nhưng những ngón tay vẫn không nghỉ.
"Tôi là người già nhất thế giới - thế giới của tôi. Tất cả những người tôi biết đều đã chết từ lâu. Hẳn phải hơn tám mươi năm - tôi cũng không dám chắc. Tôi phục vụ chúa Yoshi Chikitada, ông của chúa Toranaga, khi thái ấp của dòng họ không lớn hơn cái làng này. Tôi cũng còn ở trong doanh trại ngày Người bị ám sát."
Yabu cố ý để cho thân thể mình trùng xuống bằng một cố gắng của nghi lực, nhưng trí óc của lão sắt lại, lão bắt đầu nghe chăm chú.
"Đó là một ngày u ám, Yabu Sama. Tôi cũng không còn nhớ lúc ấy tôi bao nhiêu tuổi - nhưng tôi còn chưa vỡ giọng. Kẻ sát nhân là Obata Hiro, con trai của một liên minh mạnh nhất của Người. Có lẽ ngài biết chuyện rồi, cái gã trai trẻ đó chặt phăng đầu chúa Chikitada chỉ bằng một đường kiếm. Đó là lưỡi kiếm của Mura Sama và từ đó nảy ra câu chuyện mê tín rằng tất cả những lưỡi kiếm của Mura Sama đều đem lại rủi ro cho họ nhà Yoshi..."
Có phải lão già kể chuyện này vì lưỡi kiếm Mura Sama của chính ta không? Nhiều người biết ta có thanh kiếm này. Hay chính lão già đã nhớ lại một ngày đặc biệt trong một cuộc đời dài.
"Ông của Toranaga như thế nào?" Lão hỏi, vờ thờ ơ để thử Suwo.
"Cao, thưa Yabu Sama. Cao hơn ngài và gầy hơn nhiều, khi tôi biết Người. Hôm chết, Người hai mươi lăm tuổi." Giọng của Suwo ấm lại.
"Y... ì, thưa Yabu Sama, Người đã là lính chiến năm mười hai tuổi, mười lăm tuổi làm lãnh chúa khi cha của Người bị giết trong một cuộc giao tranh. Lúc đó chúa Chikitada đã lấy vợ và sinh được một con trai. Người chết đi thật là một điều đáng tiếc. Obata Hiro lúc ấy mới mười bảy tuổi, là bạn và là chư hầu của ông ấy, nhưng có kẻ đã đầu độc trí óc của Ôbata, nói rằng Chikitada đã phản phúc lập kế hoạch giết cha cậu ấy. Tất nhiên, tất cả đều dối trá, nhưng cũng chẳng đem Chikitada trở lại để dẫn dắt chúng ta. Chàng trai trẻ Obata quỳ trước cái xác và cúi lạy ba lần. Cậu ta nói cậu ta làm việc đó vì chữ hiếu đối với cha cậu và bây giờ muốn đền tội bằng cách mổ bụng. Cậu được phép, trước tiên chính tay cậu rửa đầu cho Chikitada rồi để nó ở một nơi tôn kính. Rồi cậu moi bụng mình và chết như một trang nam nhi. Với nghi thức long trọng, một người trong chúng tôi làm người phụ trợ, chặt đầu cậu bằng một nhát kiếm. Sau đó cha cậu tới lượm đầu con trai và thanh kiếm Mura Sama. Sự việc trở nên tồi tệ đối với chúng tôi. Người con trai duy nhất của Chikitada bị bắt làm con tin ở một nơi nào đó và tộc chúng tôi lâm vào thời kỳ đen tối. Đó là..."
"Lão già, ngươi nói láo. Ngươi không bao giờ ở đó cả..." Yabu quay người lại, lão chằm chằm nhìn ông già, ông lão lạnh người.
"Thanh kiếm đó đã bị gãy và bị phá hủy sau khi Obata chết..."
"Thưa Yabu Sama, không. Đó là huyền thoại. Chính tôi nhìn thấy người cha lượm đầu và thanh kiếm. Ai lại nỡ lòng phá hủy một tác phẩm nghệ thuật như vậy. Đó sẽ là một điều báng bổ. Ông bố của cậu ấy lượm nó..."
"Ông ấy làm gì với nó?"
"Không ai biết. Một số người nói ông ấy quăng xuống biển, bởi vì ông ấy yêu kính chúa Chikitada như một người anh em. Những người khác lại nói ông ấy chôn nó và nó vẫn chờ đợi người cháu trai của ông, Yoshi Toranaga..."
"Theo ngươi thì ông ấy làm gì với thanh kiếm đó?"
"Ném nó xuống biển..."
"Ngươi có trông thấy ông ấy không?"
"Không."
Yabu lại nằm xuống. Những ngón tay lại bắt đầu làm việc. Cái ý nghĩ có người biết thanh kiếm ấy chưa bị gãy làm lão rung động kỳ lạ. Ta nên giết Suwo, lão tự nhủ. Tại sao? Làm sao một lão mù có thể nhận ra lưỡi kiếm? Nó giống như bất cứ lưỡi kiếm Mura Sama nào. Vả lại đốc kiếm và bao đã được thay đổi nhiều lần. Không ai có thể biết được thanh kiếm của mình chính là thanh kiếm đã truyền từ tay này qua tay khác với điều bí mật ngày càng tăng, khi quyền lực của Toranaga cũng ngày càng tăng. Tại sao lại giết Suwo? Việc lão ta còn sống đã tăng thêm lòng say mê. Mình được kích thích. Để cho lão già sống - giết lão lúc nào chằng được. Với thanh kiếm này.
Ý nghĩ ấy làm Yabu vui khi lão thả mình chơi vơi một lần nữa. Rồi một ngày gần đây, lão tự hứa với mình, ta sẽ đủ sức mạnh để đeo lưỡi kiếm Mura Sama của ta trước mặt Toranaga. Có lẽ rồi sẽ đến ngày ta nói với ông ta câu chuyện thanh kiếm của ta.
"Rồi sao nữa?" Lão hỏi, mong ước được ru trong giọng nói của ông già.
"Chúng tôi lâm vào một thời thậm xấu. Đó là năm đói lớn, và chủ tôi đã chết, tôi trở thành một Ronin." Ronin là những người lính nông dân không có đất, không có chủ hoặc là những Samurai vì mất danh dự hoặc mất chủ đã buộc phải đi lang thang cho đến khi một người chủ khác nhận họ. Ronin rất khó tìm được việc làm mới. Thức ăn khan hiếm, người nào cũng làm lính, những người lạ ít khi được tin. Hầu hết bọn cướp và cướp biển là những Ronin.
"Năm đó rất xấu, và cả năm tiếp theo. Tôi đánh thuê cho bất cứ ai - một trận đánh ở đây, một cuộc đụng độ ở kia. Thức ăn là tiền trả cho tôi. Thế rồi tôi nghe nói có rất nhiều cái ăn ở Kyushu, bởi vậy tôi bắt đầu lên đường về phía Tây. Mùa đông ấy, tôi tìm được một thánh đường. Tôi đã được một tu viện Phật giáo thuê làm người gác. Tôi đánh nhau cho họ nửa năm, bảo vệ tu viện và những cánh đồng lúa của họ, chống lại bọn cướp Tu viện gần Osaka và lúc đó rất lâu, trước khi Taiko quét sạch gần hết, bọn cướp dầy đặc như muỗi đầm lầy. Một hôm, chúng tôi bị phục kích, họ để tôi lại vì tưởng đã chết. Mấy nhà sư tìm thấy tôi và chữa vết thương cho tôi. Nhưng họ không thể cho lại được tôi.
"Ánh sáng..."
Ngón tay của ông lão cứ ấn sâu mãi." Họ để tôi ở cùng với một nhà sư mù, ông này dạy tôi xoa bóp và tập nhìn bằng những ngón tay của mình. Bây giờ, ngón tay tôi nói cho tôi nhiều hơn đôi mắt trước kia, tôi nghĩ thế."
"Cái vật cuối cùng, tôi nhớ lại khi nhìn bằng đôi mắt của tôi là cái mồm rộng hoác và hàm răng hỏng của tên cướp, thanh kiếm loáng một đường vòng cung và sau nhát chém là mùi thơm của hoa. Tôi đã nhìn thấy mùi thơm trong mọi màu sắc của nó, Yabu Sama. Đó là từ rất lâu rất lâu trước khi bọn rợ đến đất của chúng ta - năm mươi, sáu mươi năm trước - nhưng tôi đã nhìn thấy màu sắc của hương thơm. Tôi đã nhìn thấy cõi Niết Bàn, tôi nghĩ thế, và trong một khoảnh khắc ngắn ngủi nhất thấy gương mặt của Phật. Mù loà cũng chỉ là một giá nhỏ trả cho một món quà tặng như vậy, có phải không?"
Không có tiếng trả lời. Suwo cũng không hề đợi một tiếng trả lời. Yabu đã ngủ như được dự tính. Ngài có thích câu chuyện của tôi không, Yabu Sama? Suwo thầm hỏi, sung sướng như một người già. Tất cả đều thật, chỉ trừ một điều. Tu viện không ở gần Osaka mà ở biên giới phía Tây của nhà ngươi. Ikaoa Jikkiu.
Ta có thể bễ gãy cổ ngươi một cách dễ dàng, ông lão nghĩ. Đó sẽ là một ân huệ đối với Omi-san. Đó sẽ là điều nhân đức đối với cả làng. Và sẽ là một đền đáp rất nhỏ một món quà tặng cho người bảo trợ ta. Mình sẽ làm điều đó bây giờ? Hay sau đó?
Spillbergen giơ nắm rơm lên, nét mặt ông căng thẳng.
"Ai muốn rút trước?"
Không ai trả lời. Blackthorne dường như đang gà gật ngủ, người tựa vào một góc mà từ hồi nào anh không hề nhúc nhích. Mặt trời gần lặn rồi.
"Phải có người rút trước chứ", Spillbergen nói xẵng.
"Nào, không còn nhiều thời gian đâu."
Họ đã được cho thức ăn, một thùng nước và một thùng khác để làm hố xí. Nhưng không có gì để cọ sạch mùi thịt thối rữa và để tắm rửa. Ruồi nhặng đã bay tới. Không khí nặng mùi, đất thì lầy nhầy bùn loãng. Hầu hết đều cởi trần, mồ hôi mồ kê nhễ nhại vì nóng và vì sợ.
Spillbergen nhìn mặt từng người một. Anh ta quay lại chỗ Blackthorne." Tại sao - tại sao anh lại được loại trừ? Hả? Tại sao?"
Đôi mắt mở ra, nổ băng giá.
"Đây là lần cuối cùng: tôi - không - biết."
"Như vậy không công bằng. Không công bằng."
Blackthorne lại quay lại với sự mơ tưởng của mình. Phải có một cách thoát ra khỏi chốn này. Phải có một cách để lấy lại tàu. Cái thằng con hoang đó, cuối cùng sẽ giết tất cả chúng ta, chắc chắn như sao Bắc đẩu vậy. Không còn nhiều thời gian, ta được miễn trừ bởi vì chúng đã có một kế hoạch đốn mạt nào đó cho ta.
Khi nắp hầm sập lại, tất cả đều nhìn anh, có người nào đó đã nói:
"Chúng ta sẽ làm gì?"
"Tôi không biết", anh đã trả lời.
"Jesuma, cứu giúp chúng con", có người thì thầm.
"Dọn cái đống này đi." Anh ra lệnh." Vun cái đống bẩn thỉu lại chỗ kia!"
"Chúng ta chẳng có khăn tay..."
"Dùng tay!"
Họ làm như anh ra lệnh và anh đã giúp họ lau rửa cho viên hạm trưởng.
"Anh sẽ ổn ngay thôi."
"Làm cách nào - làm cách nào để chọn ai đó?" Spillbergen hỏi.
"Chúng ta không chọn. Chúng ta sẽ chiến đấu..."
"Bằng gì?"
"Chúng ta như một con cừu đi vào tay đồ tể ư? Anh sẽ làm như thế ư?"
"Đừng có lố bịch - họ không cần tôi - chọn tôi làm người đó là không đúng."
"Tôi là hạm trưởng."
"Tại sao?" Vinck hỏi.
"Xin kính ngài", Vinck nói một cách hài hước,
"Có lẽ ngài nên tình nguyện. Địa vị ngài là phải tình nguyện."
"Một ý kiến rất tốt", Pieterzoon nói." Tôi ủng hộ ý kiến ấy, lạy Chúa."
Một sự đồng ý chung và ai cũng nghĩ, lạy Chúa Jesus, ai chứ không phải mình.
Spillbergen bắt đầu quát tháo, ra lệnh, nhưng ông chỉ nhìn thấy những con mắt nhẫn tâm. Bởi vậy ông thôi và nhìn chăm chăm xuống đất, người nôn nao. Rồi ông nói." Không, tình nguyện trong việc này là không đúng. Nó - ờ - chúng ta sẽ - chúng ta sẽ rút thăm. Những cọng rơm, cái ngắn nhất. Chúng ta sẽ để tay - chúng ta sẽ đặt mình trong bàn tay Chúa. Hoa tiêu, anh cầm nắm rơm này."
"Tôi không. Tôi không làm gì hết. Tôi tuyên bố chúng ta chiến đấu."
"Chúng sẽ giết tất cả chúng ta. Anh đã nghe tên Samurai đó nói chứ: Chúng ta sẽ không phải chết, trừ một người." Spillbergen gạt những giọt mồ hôi khỏi mặt, một đám ruồi bay lên rồi lại đỗ xuống." Cho tôi xin chút nước. Một người chết còn hơn là tất cả chúng ta."
Van Nekk nhúng cái bầu vào trong thùng và đưa cho Spillbergen.
"Chúng ta có mười người. Kể cả anh, Paulus", anh ta nói.
"Số lẻ là tốt".
"Rất tốt - trừ phi, anh là cái người đó." Vinck liếc nhìn Blackthorne.
"Chúng ta có thể đánh gục những thanh kiếm đó không? Nếu anh là người phải chọn, anh có đi một cách ngoan ngoãn tại chỗ kẻ tra tấn mình không?"
"Mình cũng không biết."
Van Nekk nói,
"Chúng ta sẽ rút thăm. Chúng ta hãy để Chúa định đoạt."
"Tội nghiệp cho Chúa", Blackthorne nói.
"Những sự ngu ngốc. Chúa cũng bị trách cứ vì chuyện này!"
"Chúng ta biết chọn cách nào khác?", có người hét lên.
"Không!"
"Chúng ta sẽ làm như Paulus nói. Ông ấy là hạm trưởng", Van Nekk nói:
"Chúng ta sẽ rút thăm. Như vậy là tốt nhất đối với đại đa số. Chúng ta sẽ bỏ phiếu. Tất cả chúng ta có đồng ý như thế không?"
Tất cả đều nói có. Trừ Vinck." Tôi tán thành hoa tiêu. Vứt mẹ nó những cái cọng rơm tẩm nước tè thối tha đó đi!."
Cuối cùng Vinck cũng được thuyết phục. Jan Roper, người theo thuyết Calvin (thuyết định mệnh) đã dẫn đầu những lời cầu nguyện. Spillbergen bẻ mười cọng rơm một cách chính xác, sau đó anh chia đôi một cọng.
Van Nếch, Pieterzoon, Sonk, Maetsukker, Ginsel, Jan Roper, Salamon, Maximilian, Croocq và Vinck.
Ông lại nói:
"Ai muốn rút trước?."
"Làm sao có thể biết được rằng - rằng người nhặt phải cọng rơm ngắn sẽ đi? Làm sao biết được điều đó?" Maetsukker hỏi, giọng khàn đi vì kinh hoàng.
"Không thể biết được. Không thể rõ ràng. Chúng ta nên biết một cách rõ ràng." Croocq, chú bé nói.
"Cái đó dễ thôi", Jan Roper nói." Chúng ta hãy thề chúng ta làm điều đó vì Chúa. Vì danh của Người. Ch... Chết cho người khác vì danh của Người. Vậy thì không còn phải lo lắng gì nữa. Con cừu được xức dầu thánh của Chúa sẽ đi thằng tới Cõi Vinh Quang Đời Đời."
Tất cả đều đồng ý.
"Nào, Vinck. Hãy làm như Roper nói đi."
"Được." Môi Vinck khô cong." Nếu - nếu đó là tôi, tôi thề với Chúa Trời sẽ đi với họ nếu - nếu tôi nhặt phải cọng rơm lầm. Nhân danh Chúa."
Tất cả đều theo. Maetsukker sợ quá đến nỗi lại chìm đắm vào cơn ác mộng trong khi tỉnh.
Sonk chọn trước. Pieterzoon tiếp sau. Rồi đến Jan Roper và sau đó là Salamon và Croocq. Spillbergen thấy mình đang chết thật nhanh bởi vì họ đã đồng ý là ông sẽ không rút mà ông sẽ là cọng rơm cuối cùng và bây giờ tỉ lệ trở nên kinh khủng.
Ginsel an toàn. Còn lại bốn.
Maetsukker khóc công khai, nhưng anh đẩy Vinck sang một bên, lấy một cọng rơm và không thể tin được là không phải cọng rơm định mệnh đó.
Nắm tay Spillbergen run run, Croocq giúp ông đỡ cánh tay. Cứt chảy xuống chân mà ông không hay biết.
Mình lấy cái nào đây? Van Nekk tự hỏi một cách tuyệt vọng. Ôi, Chúa hãy giúp con! Anh hầu như không nhìn thấy những cọng rơm qua màn sương mờ của đôi mắt cận. Nếu mình có thể nhìn được, có lẽ mình sẽ có được một đầu mối để mà rút. Cái nào?
Anh rút và đưa cọng rơm gí sát vào mắt để xem bản án của mình một cách rõ ràng. Nhưng cọng rơm không ngắn.
Vinck nhìn ngón tay mình chọn một trong hai cọng rơm còn lại và nó rơi xuống đất, mọi người đều thấy nó là cọng ngắn nhất. Spillbergen mở nắm tay bóp chặt và mọi người đều thấy cọng rơm cuối cùng dài. Spillbergen ngất đi.
Tất cả đều chằm chằm nhìn Vinck. Anh ngó họ một cách vô vọng, chẳng nhìn thấy gì. Anh nửa nhún vai, nửa mỉm cười lơ đãng vẫy tay xua lũ ruồi. Thế rồi anh sụp xuống. Họ nhường chỗ cho anh, tránh xa anh, y như thể anh là một thằng hủi.
Blackthorne quỳ ở chỗ nước rỉ bên cạnh Spillbergen.
"Ông ấy chết rồi à?" Van Nekk hỏi, giọng anh hầu như không nghe thấy được.
Vinck cười ré lên, làm suy nhược tất cả mọi người và ngừng lại cũng hung bạo như lúc nó bắt đầu." Tôi là - là người chết", anh nói,
"Tôi chết!"
"Đừng sợ. Anh đã được xức dầu thánh của Chúa. Anh ở trong tay Chúa." Jan Roper nói, giọng tin tưởng.
"Đúng thế", Van Nekk nói." Đừng sợ."
"Bây giờ thì dễ dàng rồi, phải thế không?" Đôi mắt của Vinck nhìn mặt từng người nhưng không ai chịu được cái nhìn của anh. Chỉ có Blackthorne là không quay đi.
"Lấy cho tôi một ít nước", anh nói lặng lẽ.
"Hãy lại chỗ thùng kia lấy một ít nước. Nào."
Vinck nhìn anh chằm chằm. Rồi lấy cái nậm múc đầy nước và đưa cho Blackthorne.
"Lạy Chúa Jesus, hoa tiêu" anh lẩm bẩm:
"Tôi sẽ làm gì?"
"Trước tiên hãy giúp tôi với anh chàng Paulus này đã, Vinck. Hãy làm như tôi bảo! Anh ta có sao không?"
Được sự bình tĩnh của Blackthorne trợ giúp, Vinck gạt nỗi thống khổ của mình sang bên. Mạch của Xpinhécghen yếu. Vinck nghe tim ông, vành mí mắt lên nhìn một lúc.
"Tôi không biết, hoa tiêu ạ. Lạy Chúa tôi, tôi không thể suy nghĩ được gì. Tim anh ấy không sao, tôi nghĩ thế. Anh ấy cần phải chích máu nhưng - nhưng tôi không cố cách gì - tôi - tôi không thể tập trung... Cho tôi...." Anh dừng lại, kiệt lực, ngồi dựa vào tường. Những cơn rung chuyển bắt đầu lắc người anh lên bần bật.
Nắp hầm mở.
Omi đứng sững nổi trên bầu trời, chiếc kimono của anh ta đỏ sẫm màu máu của mặt trời đang chết.
"Ta muốn ngày mai tất cả mọi thứ được đem lên bờ", lão nói.
"Đặt súng vào chỗ cũ. Ngụy trang tất cả mọi thứ bằng lưới hoặc vải bao bố..."
Năm trăm khẩu hỏa mai, lão sảng khoái nghĩ. Với nhiều thuốc súng và đạn hơn cả tám tỉnh của Toranaga gộp lại. Và hai mươi khẩu đại bác, năm ngàn quả đạn đại bác. Với vô vàn vũ khí đạn dược. Tên lửa. Loại tốt nhất Châu Âu!
"Mura, anh sẽ cung cấp phu khuân vác. Igurashi-san, ta muốn tất cả vũ khí này, kể cả đại bác, được bí mật đưa lên lâu đài của ta ngay lập tức. Anh sẽ phải chịu trách nhiệm!"
"Thưa chúa công, vâng..."
Bọn họ ở trong khoang chính của tàu và mọi người há hốc mồm nhìn Igurashi, một anh chàng chột, cao lớn, mềm mại, hầu cận thân tín của lão. Zukimoto, sĩ quan cận vệ, cùng với năm người làng mồ hôi mồ kê nhễ nhại đã mở những thùng đồ dưới sự giám sát của Mura và bốn Samurai vệ sĩ. Lão biết họ không hiểu được niềm hoan hỉ của lão hoặc sự cần thiết phải bí mật. Tốt, lão nghĩ.
Khi những người Portugal lần đầu tiên phát hiện ra Nhật Bản năm 1542, họ đã đưa súng hỏa mai và thuốc súng vào. Trong vòng mười tám tháng, người Nhật đã chế tạo được những thứ đó. Chất lượng chưa tốt bằng của Châu Âu nhưng không sao, bởi vì súng được coi như của mới và trong một thời gian dài, chỉ dùng để đi săn. Và ngay cả săn nữa thì cung tên cũng chính xác hơn nhiều. Và nữa, điều quan trọng hơn là, chiến tranh của Nhật Bản hầu như theo nghi thức, đánh nhau đằng thẳng bằng tay, thanh kiếm là vũ khí danh dự nhất. Việc sử dụng súng được coi như hèn nhát, không có danh dự và hoàn toàn ngược với điều luật của Samurai, bushiđô võ sĩ đạo, buộc người Samurai chiến đấu với danh dự, sống còn với danh dự và chết với danh dự, tin tưởng tuyệt đối không hề thắc mắc với chúa của mình; không sợ chết - thậm chí còn tìm tới cái chết trong việc làm của mình; tự hào với tên tuổi của mình và giữ gìn cho nó không bị vấy bẩn.
Từ nhiều năm, Yabu đã có một kế hoạch bí mật Rồi đây, lão suy nghĩ một cách sảng khoái, mình có thể triển khai và thực hiện nó: năm trăm Samurai chọn lọc trang bị bằng hỏa mai và sẽ được huấn luyện thành một đơn vị, làm mũi nhọn cho mười hai nghìn quân, được hỗ trợ bằng hai mươi đại bác sử dụng một cách đặc biệt bởi những người đặc biệt, cũng được huấn luyện thành đơn vị. Một chiến lược mới cho một kỷ nguyên mới! Trong cuộc chiến tranh tới, súng có thể là quyết định.
Còn bushiđô thì sao? Hồn ma của tổ tiên lão luôn hỏi lão.
Còn bushiđô thì sao? Lão cũng luôn hỏi lại họ.
Họ không bao giờ trả. lời..
Trong giấc mơ điên cuồng của mình, cũng không bao giờ lão nghĩ được rằng mình có thể có được năm trăm súng. Nhưng bây giờ, không mất gì mà có, và lại chỉ mình lão biết sử dụng - nhưng sử dụng chúng cho bên nào? Toranaga hay Ishido? Hay hãy chờ đã? Và có lẽ lão sẽ là người chiến thắng cuối cùng?
"Igurashi-san. Anh hãy đi ban đêm và giữ an toàn tuyệt đối..."
"Thưa chúa công, vâng..."
"Phải giữ bí mật, Mura, nếu không thì cả làng này sẽ bị xóa xạch."
"Sẽ không một điều gì được nói ra hết, thưa chúa công. Tôi có thể bảo lĩnh cho làng tôi. Tôi không thể bảo lĩnh cho cuộc hành trình hoặc cho những làng khác. Ai biết chỗ nào có gián điệp? Nhưng chúng tôi sẽ không nói ra điều gì hết..."
Sau đó Yabu vào phòng bọc sắt. Nó chứa những thứ mà lão cho là những đồ cướp bóc được của bọn hải tặc: bạc, đĩa vàng, cốc tách, chúc đài, những đồ trang trí, vài bức họa tôn giáo trong những khung nạm vàng. Một ngăn kéo đựng quần áo phụ nữ được thêu rất khéo léo bằng chỉ vàng và đính đá mầu.
"Ta sẽ nấu chảy bạc vàng thành thỏi và để trong kho", Zukimoto nói. Ông là một con người gọn ghẽ, mô phạm, tuổi tứ tuần, không phải là Samurai. Nhiều năm trước đây ông là một tăng lữ võ sĩ Phật giáo, nhưng Taiko, Quan Bảo Quốc, đã san bằng tu viện của ông trong một chiến dịch làm trong sạch những vùng đất của số tu viện và giáo phái không thừa nhận quyền tôn chủ tuyệt đối của ông ta. Zukimoto đã phải hối lộ để thoát chết và trở thành người bán hàng rong, sau đó làm người buôn gạo nhỏ. Mười năm trước đây, ông tham gia Cục Quân nhu của Yabu. Và bây giờ thì không thể thiếu ông được.
"Còn như quần áo, có lẽ chỉ vàng và ngọc chạm là có giá trị. Nếu chúa công cho phép, tôi sẽ đóng gói và gửi về Nagasaki cùng tất cả những thứ khác tôi đã cứu được." Cửa bể Nagasaki ở miền biển cực Nam của đảo, phía Nam Kyushu là trung tâm xuất nhập khẩu hợp pháp và thị trường buôn bán của Portugal." Bọn rợ có thể trả khá tiền cho những thứ tạp nham này."
"Tốt. Thế còn những kiện hàng ở trong khoang kia?"
"Tất cả đều chứa nặng vải vóc, thưa chúa công, hoàn toàn vô dụng đối với chúng ta, nó không có giá trị thị trường gì hết. Nhưng cái này chắc có giá trị với ngài", Zukimoto mở hộp sắt.
Chiếc hộp đựng hai mươi nghìn thoi bạc đúc, tiền vàng Spain. Loại thượng hảo hạng.
Yabu cựa mình trong bồn tắm. Lão lau mồ hôi mặt và cổ bằng một chiếc khăn tắm nhỏ và nhấn người sâu hơn vào làn nước thơm nóng. Nếu ba ngày trước đây, lão tự nhủ, một tên thầy bói đoán những điều ấy sẽ xảy ra thì mình hẳn đã vả vào miệng hắn vì tội nói láo.
Ba hôm trước, lão đã ở Yedo, thủ phủ của Toranaga. Thư của Omi tới lúc hoàng hôn. Rõ ràng, con tàu phải được điều tra ngay lập tức, nhưng Toranaga vẫn còn ở Osaka trong cuộc đối đầu lần chót với tướng quân lãnh chúa Ishido, và trong lúc Toranaga đi vắng, Yabu và tất cả các Daimyo lân bang thân hữu được mời đến, đợi ông ta trở về. Một lời mời như vậy không thể bị từ chối mà không gây ra những hậu quả tai hại. Yabu biết, lão và những Daimyo độc lập và gia đình của họ chỉ là để bảo hộ thêm cho sự an toàn của Toranaga. Mặc dù, cái từ ngữ đó không bao giờ được dùng, nhưng thực chất họ là những con tin, bảo đảm sự an toàn ở Osaka, pháo đài bất khả chiến thắng của kẻ thù, nơi cuộc họp được tổ chức. Toranaga là chủ tịch Hội đồng Nhiếp chính, Taiko đã chỉ định lúc lâm chung, để cai trị cả đế quốc trong khi con trai Yaemon của ông ta lúc đó mới bảy tuổi. Tất cả có năm quan Nhiếp chính, đều là những Daimyo lừng danh. Nhưng chỉ Toranaga và Ishido là thực sự có sức mạnh.
Yabu đã cân nhắc cẩn thận, đầy đủ mọi lý do để đi Anjiro, tính cả những nguy hiểm, và những lý do để ở lại. Sau đó lão đã gọi vợ cả và vợ bé yêu quý của lão lại. Vợ bé là người tình được pháp luật công nhận chính thức. Một người đàn ông muốn có bao nhiêu vợ bé cũng được, nhưng chỉ được phép ở với một người trong từng thời gian mà thôi.
"Cháu Omi của tôi vừa bí mật nhắn tin, có một chiếc tàu của bọn rợ đến bến Anjiro."
"Một trong những chiếc Black Ship sao?" Vợ lão hồi hộp hỏi. Có những chiếc tàu buôn khổng lồ, giàu có không sao tưởng tượng nổi, hằng năm vào những dịp gió mùa, chạy giữa Nagasaki và Macao của Portugal, cách gần một ngàn dặm về phía Nam Trung Hoa lục địa.
"Không. Nhưng hẳn phải giàu có. Tôi phải đi ngay bây giờ. Nàng sẽ nói tôi bị ốm và không thể bị quấy rầy bởi bất cứ lý do gì. Tôi sẽ trở lại trong vòng năm ngày..."
"Như vậy cực kỳ nguy hiểm", vợ lão cảnh giác.
"Lãnh chúa Toranaga ra lệnh đặc biệt cho chúng ta ở yên tại chỗ. Em chắc một lần nữa ngài sẽ thỏa hiệp với Ishido và ngài quá hùng mạnh để ta làm phật ý. Thưa tướng công, chúng ta không bao giờ có thể đoán chắc là không có một người nào đó nghi ngờ, do thám ở khắp nơi. Nếu Toranaga trở lại và biết tướng công đã đi, sự vắng mặt đó sẽ bị thuyết minh sai lạc. Kẻ thù của tướng công sẽ đầu độc đầu óc của chúa, rất có hại cho tướng công..."
"Đúng thế", vợ bé của lão nói thêm.
"Xin tướng công tha lỗi, nhưng ngài phải nghe phu nhân. Bà nói đúng. chúa Toranaga sẽ không bao giờ tin tướng công bất tuân lệnh chỉ để nhìn một con tàu của rợ. Xin tướng công sai người khác."
"Nhưng đây không phải là con tàu bình thường của rợ. Không phải Portugal. Hãy nghe ta nói. Omi nói là của một nước khác. Ba người nói ba thứ tiếng khác nhau và họ có mắt xanh, tóc vàng..."
"Omi điên rồi. Hay anh ta uống quá nhiều sake." Bà vợ lão nói.
"Điều này quả thực là quan trọng cho Chúa và cho tướng công."
Vợ lão đã cúi chào, xin lỗi và nói lão hoàn toàn đúng khi sửa lại sai lầm của bà ta, nhưng nhận định đó không phải là đùa cợt. Bà ta, một người nhỏ bé, gầy còm, hơn lão mười tuổi, người mà tám năm liền mỗi năm đã cho lão một đứa con cho đến khi bụng khô cạn, năm đứa là con trai, ba đã trở thành lính chiến và đã chết anh dũng trong cuộc chiến tranh chống Trung Quốc, một đứa khác là nhà tu của đạo Phật và đứa cuối cùng, mười chín tuổi, đã bị lão ghét bỏ.
Vợ lão, phu nhân Yuriko, là người phụ nữ duy nhất sợ lão, người phụ nữ duy nhất lão coi trọng - ngoài mẹ lão đã chết - và bà ta cai trị ngôi nhà bằng một cái roi lụa.
"Xin tướng công một lần nữa tha lỗi." Bà ta nói.
"Omi-san có nói tỉ mỉ về hàng hóa không?."
"Không. Nó không xem, Yuriko-san ạ. Nó nói đã niêm phong lại ngay bởi vì con tàu quá bất bình thường. Trước đây không hề có con tàu nào không phải của Spain, nhỉ? Nó cũng nói đó là một tàu chiến đấu. Hai mươi khẩu đại bác trên boong..."
"A! Thế thì phải có người nào đi ngay."
"Tôi sẽ đi ngay."
"Xin tướng công xét lại. Cử Mizuno đi. Em trai của tướng công khôn ngoan tài trí. Em xin chàng đừng đi..."
"Mizuno yếu đuối và không thể tin tưởng được..."
"Thế thì ra lệnh cho chú ấy phải seppuku đi cho xong", bà ta nói gay gắt. Seppuku, đôi khi gọi là harakiri, tự tử theo nghi thức mổ bụng, đó là cách duy nhất một Samurai có thể sửa được một nỗi nhục, một tội lỗi một sai lầm trong danh dự và đó là một đặc quyền dành riêng cho đẳng cấp võ sĩ đạo. Tất cả những Samurai đàn bà cũng như đàn ông - đều được chuẩn bị từ lúc ấu thơ, để hoặc chính mình hoặc tham gia vào các nghi lễ như một người phụ tá. Phụ nữ làm seppuku bằng một con dao đâm vào cổ họng.
"Sau đó, bây giờ thì chưa", Yabu nói với vợ.
"Vậy hãy cử Zukimoto. Anh này chắc chắn là tin được."
"Nếu Toranaga không ra lệnh cho tất cả các bà vợ và vợ bé cũng phải ở lại đây, thì ta đã cử nàng Yuriko-san, nàng nói kho của ta đã rỗng. Nàng nói ta không còn tiền gửi bọn cho vay tiền bẩn thỉu nữa. Zukimoto nói chúng ta sẽ phải thu thuế tối đa nông dân của ta. Tôi cần phải có nhiều ngựa, đạn dược, vũ khí và nhiều Samurai hơn. Có lẽ con tàu đó sẽ cung cấp được..."
"Lệnh của Lãnh chúa Toranaga hoàn toàn rõ ràng, thưa tướng công. Nếu ngài quay lại và thấy..."
"Đúng. Nếu ngài quay lại, thưa bà. Ta vẫn nghĩ là ngài đã đưa mình vào bẫy. Chúa Ishido có tám mươi ngàn Samurai ở lâu đài Osaka. Toranaga đến đó với vài trăm người là hành động của một người điên..."
"Ngài là người quá khôn ngoan, không thể liều mình vô ích như vậy..." Bà nói một cách tự tin.
"Nếu ta là Ishido, mà lại nắm được Toranaga như thế, ta sẽ giết ngay lập tức..."
"Đúng", Yuriko nói.
"Bà mẹ của công tử thừa kế vẫn còn bị giữ làm con tin ở Yedo cho đến khi Toranaga trở về. Lãnh chúa Ishido không dám đụng đến Toranaga."
"Ta thì ta sẽ giết ông ấy. Lệnh bà Ochiba sống hay chết cũng mặc, không hề gì. Công tử thừa kế vẫn an toàn ở Osaka. Toranaga mà chết thì việc kế nghiệp là chắc chắn. Toranaga là mối đe dọa thực sự, duy nhất cho công cuộc thừa kế. Ông ta là người duy nhất có thể sử dụng Hội đồng Nhiếp chính, lật đổ uy quyền của Taiko và giết đứa bé..."
"Xin tướng công tha lỗi, nhưng có lẽ nào Chúa công Ishido có thể kéo ba quan Nhiếp chính theo mình, buộc Toranaga vào trọng tội, và thế là hết đời Toranaga, hả?" Vợ bé của lão nói.
"Thưa bà, đúng thế. Nếu Ishido có thể làm được, ông ta đã làm, nhưng tôi không dám nghĩ ông ta có thể làm được, cả Toranaga cũng không thể. Taiko đã chọn năm quan Nhiếp chính rất khéo. Họ ghét nhau thậm tệ, đến độ không thể đồng ý với nhau bất cứ điều gì. Trước khi nắm quyền, năm vị Daimyo lớn đã công khai thề trung thành với Taiko đang hấp hối, với con trai ông, với dòng dõi của ông đời đời. Họ đã tuyên thệ công khai với lời thề thiêng liêng về sự cai trị thống nhất trong Hội đồng, thề sẽ chuyển giao nguyên vẹn vương quốc này cho Yaemon khi cậu tròn mười lăm tuổi. Sự cai trị thống nhất có nghĩa là, không gì có thể thay đổi cho đến khi Yaemon kế nghiệp..."
"Nhưng, thưa tướng công, một ngày nào đó, bốn quan Nhiếp chính sẽ liên kết chống lại một - vì ghen tuông, vì sợ hãi hay tham vọng - phải không ạ? Bốn người kia sẽ bẻ cong lệnh của Taiko đủ để đưa đến một cuộc chiến, phải không ạ?"
"Phải. Nhưng nó sẽ là một cuộc chiến tranh nhỏ, thưa bà, và một kẻ nào đó sẽ bị đập nát, đất của ông ta sẽ bị phân chia cho những người chiến thắng, lúc đó họ sẽ phải chỉ định một quan Nhiếp chính thứ năm và rốt cuộc rồi sẽ bốn chống một, và một đó sẽ lại bị đập nát và đất của ông ta sẽ bị thu - tất cả đúng như Taiko đã vạch trước. Vấn đề của ta là quyết định xem lần này ai sẽ là một đó. Ishido hay Toranaga?"
"Toranaga sẽ là người bị cô lập..."
"Tại sao?"
"Những người khác rất sợ ông ta bởi vì tất cả đều ngầm hiểu ông ta muốn làm Shogun, cho dù ông ta vẫn khăng khăng là không có ý ấy..."
Shogun là cấp bậc cao nhất mà một người có thể đạt được ở Nhật Bản. Shogun nghĩa là nhà độc tài quân sự tối cao. Chỉ một Daimyo có thể đạt được tước hiệu đó. Và chỉ có đức Thánh thượng - Thiên Hoàng đang trị vì - Thiên tử sống biệt lập cùng với hoàng tộc ở Kyoto, mới có thể phong tước hiệu đó.
Được chỉ định chức Shogun kèm theo quyền hành tuyệt đối: ấn tín và ủy trị của Thiên Hoàng - Shogun trị vì với danh nghĩa của Thiên Hoàng. Tất cả quyền bính đều từ Thiên Hoàng bởi vì người từ các vi thần linh trên trời giáng hạ. Do đó bất cứ một Daimyo nào chống lại Shogun thì mặc nhiên có nghĩa là nổi loạn chống lại nhà vua và lập tức bị loại bỏ, tất cả đất đai bị tịch biên. Thiên Hoàng trị vì được thờ phụng như một thần linh bởi vì người được truyền xuống từ dòng giống không hề biết gián đoạn của nữ thần Mặt trời, Amaterasu Omikami, một trong những người con của hai vị thần Izanagi và Izanami, những người đã tạo ra những bán đảo Nhật Bản từ bầu trời. Theo quyền thiêng liêng, Thiên Hoàng nắm giữ tất cả đất đai, để trị vì và được tuân lệnh vô điều kiện. Nhưng trên thực tế, hơn sáu thế kỷ nay, quyền bính thực sự ở phía sau ngai vàng.
Sáu thế kỷ trước đây, đã có một cuộc ly giáo, hai trong số ba gia đình Samurai lớn, gia đình Minowara, Fujimoto và Takashima kình địch nhau, ủng hộ những kẻ đòi nhường ngôi và nhận chìm quốc gia này trong nội chiến. Sau sáu mươi năm, gia đình Minowara đè bẹp gia đình Takashima, còn gia đình Fujimoto đứng trung lập đợi thời cơ.
Từ đó, để khư khư giữ lấy sự thống trị của mình, các Shogun nhà Minowara đã thống trị vương quốc, ban luật thừa kế Shogun và bắt đầu gả lẫn con gái của họ trong dòng Hoàng tộc. Thiên Hoàng và toàn bộ triều đình bị cô lập hoàn toàn trong những cung điện và ngự uyển, kín cổng cao tường trên khoảnh đất nhỏ lọt vào giữa Kyoto, hầu như lúc nào cũng nghèo túng, hoạt động của họ chỉ bó hẹp trong việc tế lễ thần đạo Shito, tôn giáo duy linh cổ xưa của Nhật Bản và các công việc tri thức như thuật viết chữ, hội họa, triết học và thi ca.
Triều đình của Thiên tử rất dễ bị chế ngự bởi vì, dù có toàn bộ đất đai nhưng lại không có lợi tức.
Chỉ có Daimyo và Samurai có lợi tức và có quyền đánh thuế. Vì vậy, mặc dù tất cả những người trong triều đình, về cấp bậc đều cao hơn các Samurai, nhưng họ chỉ tồn tại nhờ tiền lương thường kỳ được cung cấp cho triều đình, do ý thích bấp bênh của các Shogun, kwanpaku - quan Tổng cố vấn, hay viên tướng thống lĩnh lúc đó. Rất ít người hào phóng. Một số vị Thiên Hoàng đã phải đổi chữ ký lấy thức ăn. Nhiều làn họ còn không đủ tiền để làm lễ đăng quang.
Cuối cùng, các Shogun nhà Minowara mất về tay người khác, về tay các con cháu của Takashima hoặc Fujimoto. Và những cuộc nội chiến ngày càng tiếp diễn liên miên, không ngừng nghỉ từ thế kỷ này sang thế kỷ khác. Thiên Hoàng ngày càng trở thành công cụ trong tay một Daimyo đủ mạnh để có thể làm chủ được Kyoto. Khi một người mới chinh phục được Kyoto - bất kể người đó là Minowara, Takashima hay Fujimoto - đều cung kính thề trung thành với nhà vua và cung kính xin Thiên Hoàng không chút quyền lực ban cho mình chức Shogun còn để trống rồi cũng giống như những người trước, ông ta cố gắng mở rộng sự thống trị của mình ra ngoài Kyoto, cho đến khi bản thân ông ta lại bị nuốt chửng bởi một người khác. Thiên Hoàng lấy vợ, nhường ngôi, hay lên ngôi theo sở thích của các Shogun. Nhưng huyết thống của Thiên Hoàng trị vì là bất khả vi phạm và không thể uốn queo được.
Như vậy Shogun là quyền hành tuyệt đối cho đến khi bi lật đổ. Nhiều người bị hất khỏi địa vị của mình qua nhiều thế kỷ, khi vương quốc bị tách ra thành những phần nhỏ hơn. Trong một trăm năm qua, không một Daimyo nào có đủ sức mạnh để trở thành Shogun. Mười hai năm trước, tướng nông dân Nakamura đã nắm được quyền bính và đã đạt được sự ủy trị của Thiên Hoàng đương thời Gonijo. Nhưng Nakamura không được phong Shogun mặc dù ông ao ước đến mấy, vì ông xuất thân là nông dân. Ông đành phải bằng lòng với tước hiệu kém hơn: kwanpaku, Tổng cố vấn, và sau đó nhường tước hiệu đó cho đứa con nhỏ - Yaemon - mặc dù nắm tất cả quyền bính, nhưng phong tục đã định, ông đã phải bằng lòng với Taiko. Theo phong tục lịch sử, chỉ các con cháu của những gia đình cổ, Á thánh của Minowara và Fujimoto mới lên được Shogun.
Toranaga thuộc dòng Minowara. Yabu cũng có thể nhận là một nhánh nhỏ và mơ hồ của dòng Takashima, để đủ có một chút liên quan, nếu như có bao giờ lão lên được địa vị tối cao.
"Vâng, thưa bà", Yabu nói." Tất nhiên Toranaga muốn làm Shogun, nhưng ông ta sẽ không bao giờ đạt được. Các quan Nhiếp chính khác ghét và sợ ông ta. Họ cô lập ông ta, như kế hoạch Taiko đã vạch sẵn..." Lão nghiêng người về phía trước, quan sát vợ cẩn thận:
"Nàng nói Toranaga sẽ mất về tay Ishido ư?"
"Ông ấy sẽ bị cô lập, đúng. Nhưng thưa tướng công, cuối cùng em không nghĩ ông ấy sẽ thất bại. Em xin tướng công đừng bất tuân chúa Toranaga và đừng rời Yedo chỉ để xem con tàu của lũ rợ, dù cho Omi-san có nói nó lạ đến thế nào chăng nữa. Xin hãy cử Zukimoto đi Anjiro..."
"Thế ngộ tàu có vàng nén thì sao? Bạc hoặc vàng? Nàng liệu có tin Zukimoto hay bất cứ sĩ quan nào của chúng ta trong chuyện này không?"
"Không!.", vợ lão nói.
Vậy là tối hôm ấy, lão đã bí mật đi khỏi Yedo, chỉ đem theo năm mươi người. Và giờ đây lão đã có của cải và sức mạnh hơn cả trong mơ, những tù nhân độc đáo, một tên sẽ chết đêm nay. Lão sắp xếp một cô gái lầu xanh và một thằng bé sẵn sàng sau đó. Bình minh sáng ngày mai, lão sẽ trở lại Yedo. Hoàng hôn ngày mai, súng ống và vàng bạc sẽ bắt đầu cuộc hành trình bí mật của chúng.
I i i ì, súng! Lão sảng khoái nghĩ. Súng và kế hoạch sẽ kết hợp cho ta sức mạnh để quyết định Ishido hay Toranaga thắng - tuỳ ý ta. Rồi ta sẽ trở thành một quan nhiếp chính, thế vào chỗ của người thua, phải không nào? Rồi trở thành quan nhiếp chính mạnh nhất. Mà sao không phải là một Shogun? Đúng. Bây giờ thì tất cả đều có thể được.
Lão thả mình vào mơ mộng, đê mê. Sử dụng hai mươi ngàn thoi bạc như thế nào đây? Lão có thể xây dựng lại thành lũy của lâu đài. Mua những con ngựa đặc biệt kéo pháo. Và mở rộng mạng lưới điệp viên. Còn Ikaoa Jikkiu thì sao? Liệu một ngàn thoi bạc có đủ mua chuộc đầu bếp của Ikaoa Jikkiu để đầu độc hắn ta không? Quá đủ đi! Năm trăm, thậm chí một trăm, nếu đưa đúng người, cũng là nhiều. Ai bây giờ?
Nắng chiều xiên qua cửa sổ nhỏ của bức tường đá. Nước tắm rất nóng và được đun từ bên kia bức tường. Đây là nhà tắm của Omi. Nhà dựng trên một ngọn đồi nhỏ, trông ra làng và bến cá. Mảnh vườn bên trong gọn ghẽ, thanh tao và cân xứng.
Cửa phòng tắm mở. Một người mù cúi chào.
"Thưa tướng công, ngài Kasigi Omi phái tôi đến. Tôi là Suwo, người xoa bóp của ngài Omi..."
Ông ta cao, rất gầy, và già, nét mặt nhăn nheo.
"Tốt..." Yabu luôn luôn có nỗi kinh sợ bị mù. Chừng nào có thể nhớ lại được, lão đã từng có những giấc mơ, tỉnh dậy trong bóng tối, vẫn biết là có nắng, cảm thấy được cái ấm áp, nhưng không nhìn được, mở miệng ra để kêu, biết kêu là nhục nhã, ấy vậy mà vẫn kêu thét. Rồi tỉnh hẳn, mồ hôi vã ra.
Những nỗi kinh hoàng bị mù hình như làm tăng khoái lạc của lão khi được một người mù xoa bóp.
Lão có thể nhìn thấy vết sẹo nhiều cạnh lởm chởm trên trán phải của người đàn ông và đường nứt sâu ở phía dưới sọ. Đó là vết chém của kiếm, lão tự nhủ. Có phải đó là nguyên nhân gây ra sự mù lòa của hắn không? Có phải hắn cũng đã có một thời là Samurai? Cho ai? Hắn có phải là một tên điệp viên không?
Yabu biết, người đàn ông này đã bị cận vệ của lão lục soát kỹ lưỡng trước khi được phép vào, bởi vậy không sợ có vũ khí giấu bên trong. Thanh trường kiếm của lão trong tầm tay với, lưỡi kiếm cổ được rèn bởi người thợ luyện kiếm bậc thầy Mura Sama. Lão nhìn ông già mù cởi bỏ chiếc kimono vải bông của ông ta, mắc nó lên không cần tìm cái mắc. Có nhiều vết chém bằng kiếm trên ngực ông. Cái khố của ông rất sạch. Ông quỳ xuống, kiên nhẫn đợi.
Yabu ra khỏi bồn tắm và nằm trên chiếc ghế đá dài. Ông già mù cẩn thận lau người cho Yabu. Xoa dầu thơm vào tay và bắt đầu xoa bóp những cơ bắp trên cổ và lưng của vị Daimyo.
Sự căng thắng biến dần đi khi những ngón tay mạnh khỏe lướt chà trên người lão, ấn sâu với một sự khéo léo đến ngạc nhiên.
"Tốt Tốt quá." Một lúc sau lão nói.
"Cám ơn, Yabu Sama." Suwo nói. Sama có nghĩa là chúa công, đó là sự lịch sự bắt buộc khi nói với một bề trên.
"Ngươi phục vụ Omi-san đã lâu chưa?"
"Ba năm, thưa ngài. Ông ấy rất tốt đối với người già."
"Thế trước đó?"
"Tôi đi lang thang từ làng này đến làng khác. Một vài ngày ở đây, nửa năm ở kia, như một con bướm theo hơi thở của mùa hè." Giọng nói Suwo như ru, như đôi bàn tay ông. Ông quyết định, vị Daimyo này muốn ông nói, và ông đợi một cách kiên nhẫn câu hỏi tiếp theo, rồi ông sẽ bắt đầu nói. Một phần nghệ thuật của ông là biết người ta sẽ cần cái gì và khi nào. Đôi khi đôi tay ông mách bảo điều đó, nhưng dường như chính những ngón tay ông đã mở khóa điều bí mật của tâm hồn người đàn ông và đàn bà. Những ngón tay mách bảo cho ông biết hãy coi chừng con người này, lão ta nguy hiểm và chất chưởng, tuổi của lão chừng bốn mươi, một kị sĩ giỏi và một tay kiếm tuyệt luân. Ông già còn biết, gan lão yếu và chỉ hai năm nữa thôi, lão sẽ chết. Rượu sake và lòng dục sẽ giết lão."Ở tuổi của ngài, ngài rất khỏe, thưa Yabu Sama..."
"Ngươi cũng thế. Ngươi bao nhiêu tuổi, Suwo?"
Ông lão cười nhưng những ngón tay vẫn không nghỉ.
"Tôi là người già nhất thế giới - thế giới của tôi. Tất cả những người tôi biết đều đã chết từ lâu. Hẳn phải hơn tám mươi năm - tôi cũng không dám chắc. Tôi phục vụ chúa Yoshi Chikitada, ông của chúa Toranaga, khi thái ấp của dòng họ không lớn hơn cái làng này. Tôi cũng còn ở trong doanh trại ngày Người bị ám sát."
Yabu cố ý để cho thân thể mình trùng xuống bằng một cố gắng của nghi lực, nhưng trí óc của lão sắt lại, lão bắt đầu nghe chăm chú.
"Đó là một ngày u ám, Yabu Sama. Tôi cũng không còn nhớ lúc ấy tôi bao nhiêu tuổi - nhưng tôi còn chưa vỡ giọng. Kẻ sát nhân là Obata Hiro, con trai của một liên minh mạnh nhất của Người. Có lẽ ngài biết chuyện rồi, cái gã trai trẻ đó chặt phăng đầu chúa Chikitada chỉ bằng một đường kiếm. Đó là lưỡi kiếm của Mura Sama và từ đó nảy ra câu chuyện mê tín rằng tất cả những lưỡi kiếm của Mura Sama đều đem lại rủi ro cho họ nhà Yoshi..."
Có phải lão già kể chuyện này vì lưỡi kiếm Mura Sama của chính ta không? Nhiều người biết ta có thanh kiếm này. Hay chính lão già đã nhớ lại một ngày đặc biệt trong một cuộc đời dài.
"Ông của Toranaga như thế nào?" Lão hỏi, vờ thờ ơ để thử Suwo.
"Cao, thưa Yabu Sama. Cao hơn ngài và gầy hơn nhiều, khi tôi biết Người. Hôm chết, Người hai mươi lăm tuổi." Giọng của Suwo ấm lại.
"Y... ì, thưa Yabu Sama, Người đã là lính chiến năm mười hai tuổi, mười lăm tuổi làm lãnh chúa khi cha của Người bị giết trong một cuộc giao tranh. Lúc đó chúa Chikitada đã lấy vợ và sinh được một con trai. Người chết đi thật là một điều đáng tiếc. Obata Hiro lúc ấy mới mười bảy tuổi, là bạn và là chư hầu của ông ấy, nhưng có kẻ đã đầu độc trí óc của Ôbata, nói rằng Chikitada đã phản phúc lập kế hoạch giết cha cậu ấy. Tất nhiên, tất cả đều dối trá, nhưng cũng chẳng đem Chikitada trở lại để dẫn dắt chúng ta. Chàng trai trẻ Obata quỳ trước cái xác và cúi lạy ba lần. Cậu ta nói cậu ta làm việc đó vì chữ hiếu đối với cha cậu và bây giờ muốn đền tội bằng cách mổ bụng. Cậu được phép, trước tiên chính tay cậu rửa đầu cho Chikitada rồi để nó ở một nơi tôn kính. Rồi cậu moi bụng mình và chết như một trang nam nhi. Với nghi thức long trọng, một người trong chúng tôi làm người phụ trợ, chặt đầu cậu bằng một nhát kiếm. Sau đó cha cậu tới lượm đầu con trai và thanh kiếm Mura Sama. Sự việc trở nên tồi tệ đối với chúng tôi. Người con trai duy nhất của Chikitada bị bắt làm con tin ở một nơi nào đó và tộc chúng tôi lâm vào thời kỳ đen tối. Đó là..."
"Lão già, ngươi nói láo. Ngươi không bao giờ ở đó cả..." Yabu quay người lại, lão chằm chằm nhìn ông già, ông lão lạnh người.
"Thanh kiếm đó đã bị gãy và bị phá hủy sau khi Obata chết..."
"Thưa Yabu Sama, không. Đó là huyền thoại. Chính tôi nhìn thấy người cha lượm đầu và thanh kiếm. Ai lại nỡ lòng phá hủy một tác phẩm nghệ thuật như vậy. Đó sẽ là một điều báng bổ. Ông bố của cậu ấy lượm nó..."
"Ông ấy làm gì với nó?"
"Không ai biết. Một số người nói ông ấy quăng xuống biển, bởi vì ông ấy yêu kính chúa Chikitada như một người anh em. Những người khác lại nói ông ấy chôn nó và nó vẫn chờ đợi người cháu trai của ông, Yoshi Toranaga..."
"Theo ngươi thì ông ấy làm gì với thanh kiếm đó?"
"Ném nó xuống biển..."
"Ngươi có trông thấy ông ấy không?"
"Không."
Yabu lại nằm xuống. Những ngón tay lại bắt đầu làm việc. Cái ý nghĩ có người biết thanh kiếm ấy chưa bị gãy làm lão rung động kỳ lạ. Ta nên giết Suwo, lão tự nhủ. Tại sao? Làm sao một lão mù có thể nhận ra lưỡi kiếm? Nó giống như bất cứ lưỡi kiếm Mura Sama nào. Vả lại đốc kiếm và bao đã được thay đổi nhiều lần. Không ai có thể biết được thanh kiếm của mình chính là thanh kiếm đã truyền từ tay này qua tay khác với điều bí mật ngày càng tăng, khi quyền lực của Toranaga cũng ngày càng tăng. Tại sao lại giết Suwo? Việc lão ta còn sống đã tăng thêm lòng say mê. Mình được kích thích. Để cho lão già sống - giết lão lúc nào chằng được. Với thanh kiếm này.
Ý nghĩ ấy làm Yabu vui khi lão thả mình chơi vơi một lần nữa. Rồi một ngày gần đây, lão tự hứa với mình, ta sẽ đủ sức mạnh để đeo lưỡi kiếm Mura Sama của ta trước mặt Toranaga. Có lẽ rồi sẽ đến ngày ta nói với ông ta câu chuyện thanh kiếm của ta.
"Rồi sao nữa?" Lão hỏi, mong ước được ru trong giọng nói của ông già.
"Chúng tôi lâm vào một thời thậm xấu. Đó là năm đói lớn, và chủ tôi đã chết, tôi trở thành một Ronin." Ronin là những người lính nông dân không có đất, không có chủ hoặc là những Samurai vì mất danh dự hoặc mất chủ đã buộc phải đi lang thang cho đến khi một người chủ khác nhận họ. Ronin rất khó tìm được việc làm mới. Thức ăn khan hiếm, người nào cũng làm lính, những người lạ ít khi được tin. Hầu hết bọn cướp và cướp biển là những Ronin.
"Năm đó rất xấu, và cả năm tiếp theo. Tôi đánh thuê cho bất cứ ai - một trận đánh ở đây, một cuộc đụng độ ở kia. Thức ăn là tiền trả cho tôi. Thế rồi tôi nghe nói có rất nhiều cái ăn ở Kyushu, bởi vậy tôi bắt đầu lên đường về phía Tây. Mùa đông ấy, tôi tìm được một thánh đường. Tôi đã được một tu viện Phật giáo thuê làm người gác. Tôi đánh nhau cho họ nửa năm, bảo vệ tu viện và những cánh đồng lúa của họ, chống lại bọn cướp Tu viện gần Osaka và lúc đó rất lâu, trước khi Taiko quét sạch gần hết, bọn cướp dầy đặc như muỗi đầm lầy. Một hôm, chúng tôi bị phục kích, họ để tôi lại vì tưởng đã chết. Mấy nhà sư tìm thấy tôi và chữa vết thương cho tôi. Nhưng họ không thể cho lại được tôi.
"Ánh sáng..."
Ngón tay của ông lão cứ ấn sâu mãi." Họ để tôi ở cùng với một nhà sư mù, ông này dạy tôi xoa bóp và tập nhìn bằng những ngón tay của mình. Bây giờ, ngón tay tôi nói cho tôi nhiều hơn đôi mắt trước kia, tôi nghĩ thế."
"Cái vật cuối cùng, tôi nhớ lại khi nhìn bằng đôi mắt của tôi là cái mồm rộng hoác và hàm răng hỏng của tên cướp, thanh kiếm loáng một đường vòng cung và sau nhát chém là mùi thơm của hoa. Tôi đã nhìn thấy mùi thơm trong mọi màu sắc của nó, Yabu Sama. Đó là từ rất lâu rất lâu trước khi bọn rợ đến đất của chúng ta - năm mươi, sáu mươi năm trước - nhưng tôi đã nhìn thấy màu sắc của hương thơm. Tôi đã nhìn thấy cõi Niết Bàn, tôi nghĩ thế, và trong một khoảnh khắc ngắn ngủi nhất thấy gương mặt của Phật. Mù loà cũng chỉ là một giá nhỏ trả cho một món quà tặng như vậy, có phải không?"
Không có tiếng trả lời. Suwo cũng không hề đợi một tiếng trả lời. Yabu đã ngủ như được dự tính. Ngài có thích câu chuyện của tôi không, Yabu Sama? Suwo thầm hỏi, sung sướng như một người già. Tất cả đều thật, chỉ trừ một điều. Tu viện không ở gần Osaka mà ở biên giới phía Tây của nhà ngươi. Ikaoa Jikkiu.
Ta có thể bễ gãy cổ ngươi một cách dễ dàng, ông lão nghĩ. Đó sẽ là một ân huệ đối với Omi-san. Đó sẽ là điều nhân đức đối với cả làng. Và sẽ là một đền đáp rất nhỏ một món quà tặng cho người bảo trợ ta. Mình sẽ làm điều đó bây giờ? Hay sau đó?
Spillbergen giơ nắm rơm lên, nét mặt ông căng thẳng.
"Ai muốn rút trước?"
Không ai trả lời. Blackthorne dường như đang gà gật ngủ, người tựa vào một góc mà từ hồi nào anh không hề nhúc nhích. Mặt trời gần lặn rồi.
"Phải có người rút trước chứ", Spillbergen nói xẵng.
"Nào, không còn nhiều thời gian đâu."
Họ đã được cho thức ăn, một thùng nước và một thùng khác để làm hố xí. Nhưng không có gì để cọ sạch mùi thịt thối rữa và để tắm rửa. Ruồi nhặng đã bay tới. Không khí nặng mùi, đất thì lầy nhầy bùn loãng. Hầu hết đều cởi trần, mồ hôi mồ kê nhễ nhại vì nóng và vì sợ.
Spillbergen nhìn mặt từng người một. Anh ta quay lại chỗ Blackthorne." Tại sao - tại sao anh lại được loại trừ? Hả? Tại sao?"
Đôi mắt mở ra, nổ băng giá.
"Đây là lần cuối cùng: tôi - không - biết."
"Như vậy không công bằng. Không công bằng."
Blackthorne lại quay lại với sự mơ tưởng của mình. Phải có một cách thoát ra khỏi chốn này. Phải có một cách để lấy lại tàu. Cái thằng con hoang đó, cuối cùng sẽ giết tất cả chúng ta, chắc chắn như sao Bắc đẩu vậy. Không còn nhiều thời gian, ta được miễn trừ bởi vì chúng đã có một kế hoạch đốn mạt nào đó cho ta.
Khi nắp hầm sập lại, tất cả đều nhìn anh, có người nào đó đã nói:
"Chúng ta sẽ làm gì?"
"Tôi không biết", anh đã trả lời.
"Jesuma, cứu giúp chúng con", có người thì thầm.
"Dọn cái đống này đi." Anh ra lệnh." Vun cái đống bẩn thỉu lại chỗ kia!"
"Chúng ta chẳng có khăn tay..."
"Dùng tay!"
Họ làm như anh ra lệnh và anh đã giúp họ lau rửa cho viên hạm trưởng.
"Anh sẽ ổn ngay thôi."
"Làm cách nào - làm cách nào để chọn ai đó?" Spillbergen hỏi.
"Chúng ta không chọn. Chúng ta sẽ chiến đấu..."
"Bằng gì?"
"Chúng ta như một con cừu đi vào tay đồ tể ư? Anh sẽ làm như thế ư?"
"Đừng có lố bịch - họ không cần tôi - chọn tôi làm người đó là không đúng."
"Tôi là hạm trưởng."
"Tại sao?" Vinck hỏi.
"Xin kính ngài", Vinck nói một cách hài hước,
"Có lẽ ngài nên tình nguyện. Địa vị ngài là phải tình nguyện."
"Một ý kiến rất tốt", Pieterzoon nói." Tôi ủng hộ ý kiến ấy, lạy Chúa."
Một sự đồng ý chung và ai cũng nghĩ, lạy Chúa Jesus, ai chứ không phải mình.
Spillbergen bắt đầu quát tháo, ra lệnh, nhưng ông chỉ nhìn thấy những con mắt nhẫn tâm. Bởi vậy ông thôi và nhìn chăm chăm xuống đất, người nôn nao. Rồi ông nói." Không, tình nguyện trong việc này là không đúng. Nó - ờ - chúng ta sẽ - chúng ta sẽ rút thăm. Những cọng rơm, cái ngắn nhất. Chúng ta sẽ để tay - chúng ta sẽ đặt mình trong bàn tay Chúa. Hoa tiêu, anh cầm nắm rơm này."
"Tôi không. Tôi không làm gì hết. Tôi tuyên bố chúng ta chiến đấu."
"Chúng sẽ giết tất cả chúng ta. Anh đã nghe tên Samurai đó nói chứ: Chúng ta sẽ không phải chết, trừ một người." Spillbergen gạt những giọt mồ hôi khỏi mặt, một đám ruồi bay lên rồi lại đỗ xuống." Cho tôi xin chút nước. Một người chết còn hơn là tất cả chúng ta."
Van Nekk nhúng cái bầu vào trong thùng và đưa cho Spillbergen.
"Chúng ta có mười người. Kể cả anh, Paulus", anh ta nói.
"Số lẻ là tốt".
"Rất tốt - trừ phi, anh là cái người đó." Vinck liếc nhìn Blackthorne.
"Chúng ta có thể đánh gục những thanh kiếm đó không? Nếu anh là người phải chọn, anh có đi một cách ngoan ngoãn tại chỗ kẻ tra tấn mình không?"
"Mình cũng không biết."
Van Nekk nói,
"Chúng ta sẽ rút thăm. Chúng ta hãy để Chúa định đoạt."
"Tội nghiệp cho Chúa", Blackthorne nói.
"Những sự ngu ngốc. Chúa cũng bị trách cứ vì chuyện này!"
"Chúng ta biết chọn cách nào khác?", có người hét lên.
"Không!"
"Chúng ta sẽ làm như Paulus nói. Ông ấy là hạm trưởng", Van Nekk nói:
"Chúng ta sẽ rút thăm. Như vậy là tốt nhất đối với đại đa số. Chúng ta sẽ bỏ phiếu. Tất cả chúng ta có đồng ý như thế không?"
Tất cả đều nói có. Trừ Vinck." Tôi tán thành hoa tiêu. Vứt mẹ nó những cái cọng rơm tẩm nước tè thối tha đó đi!."
Cuối cùng Vinck cũng được thuyết phục. Jan Roper, người theo thuyết Calvin (thuyết định mệnh) đã dẫn đầu những lời cầu nguyện. Spillbergen bẻ mười cọng rơm một cách chính xác, sau đó anh chia đôi một cọng.
Van Nếch, Pieterzoon, Sonk, Maetsukker, Ginsel, Jan Roper, Salamon, Maximilian, Croocq và Vinck.
Ông lại nói:
"Ai muốn rút trước?."
"Làm sao có thể biết được rằng - rằng người nhặt phải cọng rơm ngắn sẽ đi? Làm sao biết được điều đó?" Maetsukker hỏi, giọng khàn đi vì kinh hoàng.
"Không thể biết được. Không thể rõ ràng. Chúng ta nên biết một cách rõ ràng." Croocq, chú bé nói.
"Cái đó dễ thôi", Jan Roper nói." Chúng ta hãy thề chúng ta làm điều đó vì Chúa. Vì danh của Người. Ch... Chết cho người khác vì danh của Người. Vậy thì không còn phải lo lắng gì nữa. Con cừu được xức dầu thánh của Chúa sẽ đi thằng tới Cõi Vinh Quang Đời Đời."
Tất cả đều đồng ý.
"Nào, Vinck. Hãy làm như Roper nói đi."
"Được." Môi Vinck khô cong." Nếu - nếu đó là tôi, tôi thề với Chúa Trời sẽ đi với họ nếu - nếu tôi nhặt phải cọng rơm lầm. Nhân danh Chúa."
Tất cả đều theo. Maetsukker sợ quá đến nỗi lại chìm đắm vào cơn ác mộng trong khi tỉnh.
Sonk chọn trước. Pieterzoon tiếp sau. Rồi đến Jan Roper và sau đó là Salamon và Croocq. Spillbergen thấy mình đang chết thật nhanh bởi vì họ đã đồng ý là ông sẽ không rút mà ông sẽ là cọng rơm cuối cùng và bây giờ tỉ lệ trở nên kinh khủng.
Ginsel an toàn. Còn lại bốn.
Maetsukker khóc công khai, nhưng anh đẩy Vinck sang một bên, lấy một cọng rơm và không thể tin được là không phải cọng rơm định mệnh đó.
Nắm tay Spillbergen run run, Croocq giúp ông đỡ cánh tay. Cứt chảy xuống chân mà ông không hay biết.
Mình lấy cái nào đây? Van Nekk tự hỏi một cách tuyệt vọng. Ôi, Chúa hãy giúp con! Anh hầu như không nhìn thấy những cọng rơm qua màn sương mờ của đôi mắt cận. Nếu mình có thể nhìn được, có lẽ mình sẽ có được một đầu mối để mà rút. Cái nào?
Anh rút và đưa cọng rơm gí sát vào mắt để xem bản án của mình một cách rõ ràng. Nhưng cọng rơm không ngắn.
Vinck nhìn ngón tay mình chọn một trong hai cọng rơm còn lại và nó rơi xuống đất, mọi người đều thấy nó là cọng ngắn nhất. Spillbergen mở nắm tay bóp chặt và mọi người đều thấy cọng rơm cuối cùng dài. Spillbergen ngất đi.
Tất cả đều chằm chằm nhìn Vinck. Anh ngó họ một cách vô vọng, chẳng nhìn thấy gì. Anh nửa nhún vai, nửa mỉm cười lơ đãng vẫy tay xua lũ ruồi. Thế rồi anh sụp xuống. Họ nhường chỗ cho anh, tránh xa anh, y như thể anh là một thằng hủi.
Blackthorne quỳ ở chỗ nước rỉ bên cạnh Spillbergen.
"Ông ấy chết rồi à?" Van Nekk hỏi, giọng anh hầu như không nghe thấy được.
Vinck cười ré lên, làm suy nhược tất cả mọi người và ngừng lại cũng hung bạo như lúc nó bắt đầu." Tôi là - là người chết", anh nói,
"Tôi chết!"
"Đừng sợ. Anh đã được xức dầu thánh của Chúa. Anh ở trong tay Chúa." Jan Roper nói, giọng tin tưởng.
"Đúng thế", Van Nekk nói." Đừng sợ."
"Bây giờ thì dễ dàng rồi, phải thế không?" Đôi mắt của Vinck nhìn mặt từng người nhưng không ai chịu được cái nhìn của anh. Chỉ có Blackthorne là không quay đi.
"Lấy cho tôi một ít nước", anh nói lặng lẽ.
"Hãy lại chỗ thùng kia lấy một ít nước. Nào."
Vinck nhìn anh chằm chằm. Rồi lấy cái nậm múc đầy nước và đưa cho Blackthorne.
"Lạy Chúa Jesus, hoa tiêu" anh lẩm bẩm:
"Tôi sẽ làm gì?"
"Trước tiên hãy giúp tôi với anh chàng Paulus này đã, Vinck. Hãy làm như tôi bảo! Anh ta có sao không?"
Được sự bình tĩnh của Blackthorne trợ giúp, Vinck gạt nỗi thống khổ của mình sang bên. Mạch của Xpinhécghen yếu. Vinck nghe tim ông, vành mí mắt lên nhìn một lúc.
"Tôi không biết, hoa tiêu ạ. Lạy Chúa tôi, tôi không thể suy nghĩ được gì. Tim anh ấy không sao, tôi nghĩ thế. Anh ấy cần phải chích máu nhưng - nhưng tôi không cố cách gì - tôi - tôi không thể tập trung... Cho tôi...." Anh dừng lại, kiệt lực, ngồi dựa vào tường. Những cơn rung chuyển bắt đầu lắc người anh lên bần bật.
Nắp hầm mở.
Omi đứng sững nổi trên bầu trời, chiếc kimono của anh ta đỏ sẫm màu máu của mặt trời đang chết.
Bạn cần đăng nhập để bình luận