Shogun Tướng Quân

Chương 1

Quyển Một.
Blackthorne đột nhiên tỉnh dậy. Trong một giây lát, anh tưởng mình đang nằm mơ vì anh đang ở trên bờ và căn phòng anh nằm không thể nào tin được. Nó nhỏ, rất sạch và trải bằng chiếu mềm, anh đang nằm trên một chiếc chăn dày và một chiếc khác đắp qua người. Trần nhà bằng gỗ tuyết tùng nhẵn bóng, tường là những lát gỗ tuyết tùng vuông, phủ bằng giấy mờ để làm nhạt ánh sáng một cách dễ chịu. Bên cạnh anh, một chiếc khay màu đỏ thắm để những chiếc bát nhỏ. Một bát đựng rau luộc, anh ăn ngấu nghiến, hầu như không để ý đến cái vị cay của nó. Bát kia đựng canh cá và anh cũng húp cạn luôn. Một bát nữa đựng đầy cháo bột mỳ hay lúa mạch đặc quánh và anh cũng kết thúc nó nhanh chóng bằng cách ăn bốc. Nước ở trong cái bầu hình thù kỳ quặc, ấm và có vị là lạ, hơi đắng nhưng thơm.
Rồi anh để ý cây thánh giá đặt trong hốc tường.
"Nhà của người Spain hay Portugal?"
Spain: Tây Ban Nha, Portugal: Bồ Đào Nha.
Anh suy nghĩ, kinh hoàng.
"Của người Nhật hay Cathay?"
Cathay: tên cổ để gọi người Trung Quốc.
Tấm cửa lùa bằng gỗ trên tường được kéo ra. Một người đàn bà trung niên, to béo, mặt tròn, quỳ gối bên cửa, bà cúi chào và mỉm cười. Nước da bà màu vàng, đôi mắt đen và hẹp, mớ tóc đen dài của bà búi gọn ghẽ trên đầu Bà ta mặc chiếc áo dài lụa màu xám, đi tất trắng ngắn, đế dày, một băng vải màu tím quấn quanh lưng.
"GoshujinSama, gokibun waikaga desu ka?"
Bà ta nói. Bà ta đợi trong khi anh ngó ngơ ngác, rồi nhắc lại.
"Đây là người Nhật?" anh hỏi.
"Người Nhật hay Cathay?"
Bà ta nhìn anh không hiểu và cũng nói một câu gì khác anh không hiểu. Rồi anh nhận ra mình trần truồng. Quần áo của anh không thấy đâu. Bằng ngôn ngữ cử chỉ, anh ra hiệu muốn mặc quần áo. Rồi anh chỉ vào những bát thức ăn, bà ta hiểu anh vẫn còn đói.
Bà ta mỉm cười, cúi chào và kéo cánh cửa lại.
Anh nằm xuống, kiệt sức. Sự bất động khó chịu nôn nao của sàn nhà làm đầu óc anh quay cuồng. Anh cố gắng hồi tưởng lại. Mình nhớ là đã đưa neo ra cho Vinck. Mình nghĩ đúng là Vinck. Bọn mình đang ở trong vịnh, con tàu húc mũi vào một vũng nước cạn và dừng lại. Bọn mình có thể nghe thấy tiếng sóng vỗ bờ nhưng mọi sự đều yên ổn. Có ánh đèn trên bờ, rồi mình ở trong ca bin và đêm tối. Mình không nhớ gì hết. Rồi có ánh đèn xuyên qua màn đêm và những tiếng nói lạ. Mình nói tiếng Anh, rồi tiếng Bồ. Một người dân sở tại nói một ít tiếng Bồ. Hay anh ta là người Portugal nhỉ? Không, mình nghĩ anh ta là dân sở tại. Không biết mình có hỏi anh ta mình ở đâu không nhỉ? Mình không nhớ. Rồi bọn mình lại trở lại vũng nước, một đợt sóng lớn xô lên, mình bị cuốn ra biển và chìm - lạnh buốt - không, biển ấm và giống một chiếc giường lụa dày chừng hai mét. Chắc họ khiêng mình lên bờ và để mình ở đây.
"Hẳn nó là cái giường này đây, mềm và ấm đến thế", anh nói to.
"Trước đây mình chưa bao giờ ngủ trên lụa." Sự yếu đuối trùm lên anh và anh ngủ thẳng một mạch không mộng mị.
Khi thức dậy, có nhiều thức ăn hơn trong những chiếc bát sành và quần áo của anh xếp gọn ghẽ bên cạnh. Chúng đã được giặt, là và được vá bằng những đường khâu nhỏ thẳng tắp.
Nhưng dao của anh không còn và cả chùm chìa khóa nữa.
Mình phải kiếm ngay một con dao, anh nghĩ - hoặc một khẩu súng.
Mắt anh nhìn lên cây thánh giá. Mặc dù đang kinh hãi, sự kích động của anh dồn lên. Suốt đời mình, anh đã nghe nói đến những huyền thoại do những hoa tiêu và những thủy thủ kể về sự giàu có không thể tưởng tượng được của vương quốc bí mật Portugal ở phương Đông. Người ta đã cải đạo, làm cho những người ngoại đạo đi theo công giáo, điều khiển, khống chế họ. Ở đây vàng rẻ như gang, ngọc lục bảo, hồng thạch, kim cương, sa phia nhiều như sỏi trên bờ biển.
Nếu cái chuyện công giáo mà đúng, anh tự nhủ, thì có lẽ những chuyện còn lại cũng đúng. Về sự giàu có ấy. Đúng. Nhưng mình được vũ trang và được quay về tàu Erasmus, đứng sau khẩu pháo của nó sớm chừng nào tốt chừng ấy.
Anh ăn ngấu nghiến, mặc quần áo, đứng lắc lư, thấy mình lạc lõng như anh luôn cảm thấy khi ở trên bờ. Đôi ủng của anh đã mất. Anh đi ra cửa, người hơi lảo đảo, một tay đưa ra phía trước để giữ thăng bằng, nhưng những thanh gỗ vuông mỏng không chịu được sức nặng của anh, chúng lung lay, giấy rách ra. Anh thẳng người lên. Người đàn bà đứng ngây ngoài hành lang ngước mắt nhìn anh trân trân.
"Tôi xin lỗi", anh nói, lúng túng lạ lùng về sự vụng về của mình. Sự trong trắng của căn phòng bị hoen ố đi chút ít.
"Giày của tôi đâu?"
Người đàn bà nhìn anh ngơ ngác. Anh kiên nhẫn hỏi lại bằng cử chỉ. Bà ta rẽ vào một lối nhỏ, quỳ xuống và kéo một cánh cửa gỗ khác, ra hiệu gọi anh. Có tiếng người nói ở gần và tiếng nước chảy. Anh đi qua cửa và thấy mình ở trong một phòng khác, gần như không có đồ đạc gì. Phòng này mở ra một hàng hiên có những bậc dẫn tới khu vườn nhỏ có tường cao bao quanh. Bên cạnh lối vào chính này có hai người đàn bà già, ba đứa trẻ mặc áo dài màu đỏ tươi và một ông già rõ ràng là người làm vườn, tay cầm cào cỏ. Ngay lập tức tất cả đều cúi chào trịnh trọng, đầu cúi thấp.
Blackthorne ngạc nhiên thấy ông già gần như trần truồng, chỉ có một cái khố nhỏ xíu hầu như không che nổi chỗ kín của mình.
"Xin chào", anh nói với họ.
Họ đứng bất động, đầu vẫn cúi.
Bàng hoàng, anh nhìn họ, rồi cúi chào một cách vụng về. Tất cả đều thẳng người lên và mỉm cười với anh. Ông già cúi chào một lần nữa và quay lại làm việc trong vườn. Lũ trẻ nhìn anh chằm chằm rồi cười và chạy tóe đi. Người đàn bà già biến vào tít sâu trong nhà. Nhưng anh vẫn cảm thấy cặp mắt họ dõi nhìn anh.
Anh nhìn thấy đôi ủng của mình đặt ở cuối bậc thềm. Trước khi anh kịp cầm nó lên, người đàn bà đứng tuổi đã quỳ xuống, trước sự bối rối của anh, giúp anh đi giày.
"Cám ơn", anh nói. Anh suy nghĩ một lúc rồi chỉ vào mình:
"Blackthorne", anh nói thong thả,
"Blackthorne." Rồi anh chỉ vào bà ta:
"Tên bà là gì?"
Bà ta nhìn anh không hiểu.
"Blackthorne".
Anh nhắc lại một cách cẩn thận, chỉ vào mình rồi lại chỉ vào bà ta.
"Tên bà là gì?"
Bà ta chau mày, rồi chợt hiểu, bà ta chỉ vào người và nói:
"Onna! Oana!"
"Onna!" anh nhắc lại, tự hào về mình cũng như bà ta tự hào về mình.
"Onna."
Bà ta gật đầu sung sướng:
"Onna!."
Khu vườn không giống bất cứ một cái gì anh đã từng nhìn thấy: một thác nước nhỏ, một dòng suối, một cây cầu nhỏ, một lối đi rải sỏi tỉa tót, đá hoa và những bụi cây. Nó sạch sẽ quá, anh nghĩ thế. Sạch sẽ quá.
"Không thể tin được.", anh nói.
"Ko…tin…da…?" Bà ta ướm lại.
"Không có gì", anh nói. Rồi không biết làm gì nữa anh ra hiệu để bà ta đi. Ngoan ngoãn, bà ta cúi chào lễ phép và bước đi.
Blackthorne ngồi trong ánh nắng ấm áp, tựa mình vào một chiếc cột. Cảm thấy mình còn rất yếu, anh ngắm nhìn ông già rẫy cỏ trong khu vườn đã sạch. Không hiểu những người khác ở đâu? Hạm trưởng còn sống không? Mình ngủ bao nhiêu ngày? Mình nhớ mình đã thức dậy, ăn và ngủ lại, ăn không được thoải mái như trong những giấc mơ.
Trẻ con líu ríu đuổi nhau chạy qua. Anh thấy lúng túng thay cho chúng vì sự trần truồng của người làm vườn, bởi khi ông ta nghiêng người hoặc cúi xuống thì người ta nhìn thấy tất cả. Anh ngạc nhiên khi thấy lũ trẻ tỏ ra không để ý gì hết. Anh nhìn thấy những mái ngói và mái gianh của những tòa nhà khác bên ngoài tường và xa xa là những dãy núi cao. Một cơn gió hanh khô lướt qua bầu trời xô đẩy những đám mây chuyển động. Ong đang làm mật và đây là một ngày xuân tuyệt đẹp. Cơ thể anh đòi được ngủ nữa nhưng anh cố vươn thẳng người và đi ra cửa vườn. Người làm vườn mỉm cười, cúi chào, chạy tới mở cửa, rồi lại cúi chào và khép cửa lại.
Xóm làng trải quanh bến cảng hình lưỡi liềm trông về phía Đông. Hơn hai trăm nóc nhà không giống bất cứ ngôi nhà nào anh đã từng trông thấy, nép vào nhau ở đầu mỏm núi tỏa xuống bờ biển. Phía trên là những thửa ruộng vuông vức, với những con đường bụi bặm dẫn về phía Bắc và phía Nam. Bên dưới, khu cảng rải đá cuội và một bờ dốc bằng đá để bốc dỡ hàng hoá chạy thẳng xuống biển. Một bến cảng tốt, an toàn và một cầu tàu bằng đá; đàn ông, đàn bà rửa cá, đan lưới, một chiếc thuyền kiểu dáng độc đáo đang được đóng ở phía Bắc. Những hòn đảo ở ngoài biển xa, nằm về phía Đông và phía Nam. Những mạch đá ngầm sẽ ở đấy hoặc ở bên kia chân trời.
Trong bến, có nhiều tàu, hình thù kỳ quái, hầu hết dùng cho nghề đánh cá. Một vài chiếc có buồm lớn, vài chiếc khác có mái chèo. Những người chèo thuyền đứng đẩy thuyền ra khơi, chứ không ngồi kéo như anh sẽ làm ở địa vị mình. Một vài con thuyền hướng ra biển, những thuyền khác hướng mũi về cầu tàu. Chiếc Erasmus thả neo gọn gàng, cách bờ 50 bộ, nước vừa đủ với ba dây cáp:
"Ai đã làm như vậy?" anh tự hỏi.
Có những chiếc thuyền bên cạnh nó, anh có thể nhìn thấy những người bản xứ trên thuyền. Nhưng không có người nào của anh.
"Họ đi đâu cả nhỉ?" Anh nhìn quanh làng và bắt đầu để ý thấy nhiều người đang nhìn anh. Khi họ biết anh để ý đến họ, tất cả đều chào. Mặc dầu không thoải mái, anh vẫn chào lại. Rồi họ lại vui vẻ bình thường qua lại, mặc cả chào nhau, hình như quên khuấy mất anh. Tất cả giống như những con bướm muôn màu. Nhưng anh bỗng cảm thấy có những con mắt đang dò xét anh, từ mỗi khung cửa, khi anh bước về phía bờ biển.
Tại sao họ lại kỳ quái như vậy? Anh tự hỏi, không phải nghĩ về quần áo và hành vi của họ. Đó là họ không có vũ khí, anh nghĩ một cách kinh ngạc. Không kiếm, không súng! Tại sao vậy?
Những cửa hiệu ngoài trời đầy hàng hóa, những kiện hàng kỳ lạ bày dọc phố nhỏ. Sàn nhà cao, người bán và người mua quỳ hoặc ngồi xổm trên những sàn gỗ sạch. Anh thấy hầu hết đều đi guốc hoặc dép cói, bàn chân dày tẽ giữa ngón cái và những ngón khác để giữ những sợi dây đan nhưng họ để guốc dép bẩn ngoài cửa, chùi chân và xỏ vào những đôi dép sạch để trong nhà. Nếu suy nghĩ, mình sẽ thấy như vậy rất hợp lý, anh tự nhủ, thán phục.
Sau đó, anh thấy một người trọc đầu tiến lại. Một nỗi sợ lướt thót người từ dái đến dạ dày anh. Người thầy tu này rõ ràng là người Portugal hoặc Spain và mặc dù chiếc áo dài lòa xòa màu da cam, chuỗi tràng hạt và chiếc thánh giá ở thắt lưng, sự thù hận lạnh lẽo vẫn lộ rõ trên nét mặt gã. Chiếc áo dài có nhiều vết loang lổ và đôi ủng kiểu Châu Âu của gã bê bết bùn. Gã ngó ra bến cảng, nhìn chiếc Erasmus, Blackthorne biết gã hẳn đã nhận ra đó là tàu Holland hoặc England, một loại tàu mới lạ đối với hầu hết mặt biển. Nó thon hơn, nhanh hơn, một loại tàu buôn chiến đấu được đóng theo khuôn mẫu cải tiến của những tàu Anh, đã giáng bao nhiêu. thất bại trên luồng biển Spain. Cùng đi với gã thầy tu còn có mười người bản xứ, tóc đen, mắt đen, một người ăn mặc như gã, chỉ trừ đôi dép buộc dây. Những người khác mặc áo dài màu sắc khác nhau và quần rộng hoặc chỉ đóng khố. Nhưng không ai có vũ khí.
Blackthorne muốn bỏ chạy trong khi còn kịp nhưng anh biết anh không có sức và cũng không có chỗ nào để trốn. Chiều cao, khổ người và màu mắt của anh làm anh xa lạ trong cái thế giới này. Anh ngả lưng dựa vào tường.
"Anh là ai?" Gã thầy tu hỏi bằng tiếng Portugal.
Gã là một người to béo, ngăm đen, ở tuổi hăm lăm hăm bảy, râu dài.
"Anh là ai?" Blackthorne nhìn lại.
"Tàu đó là tàu Holland. Anh là một tên Holland dị giáo. Các anh là hải tặc. Chúa thương xót lấy các anh."
"Chúng tôi không phải hải tặc, chúng tôi là những người lái buôn hòa bình, trừ đối với kẻ thù của chúng tôi. Tôi là hoa tiêu của tàu đó. Anh là ai?"
"Cha Sebastio. Làm sao các anh tới được đây? Làm sao?"
"Chúng tôi bị gió thổi giạt vào bờ. Chỗ này là chỗ nào? Có phải những người Nhật Bản không?"
"Đúng. Nhật Bản. Người Nhật." Gã thầy tu nói một cách sốt ruột.
Gã ta quay lại một người nhiều tuổi hơn những người khác nhỏ và mảnh, có đôi cánh tay khỏe mạnh và bàn tay chai, đầu hói cao, tóc buộc lại thành một cái đuôi màu xám như lông mày của anh ta. Gã thầy tu vừa nói ngập ngừng với anh ta bằng tiếng Nhật, vừa chỉ vào Blackthorne. Tất cả có vẻ sửng sốt, một người làm dấu thánh.
"Người Holland dị giáo, bọn phản loạn, bọn hải tặc. Tên anh là gì?"
"Đây là một khu của người Portugal à?"
Mắt gã thầy tu đanh lại và vằn máu.
"Trưởng làng nói ông ta đã báo cáo với nhà cầm quyền về các anh. Tội ác của các anh sẽ bị trừng trị. Những người còn lại trong thủy thủ đoàn các anh đâu?"
"Chúng tôi bị gió thổi chệch hướng. Chúng tôi cần thức ăn, nước và thời gian để sửa lại tàu. Rồi chúng tôi sẽ đi. Chúng tôi có thể trả cho mỗi..."
"Những người còn lại trong thủy thủ đoàn của các anh đâu?"
"Tôi không biết. Trên tàu. Tôi chắc họ ở trên tàu?."
Gã thầy tu hỏi viên trưởng làng, người này trả lời và chỉ về phía cuối làng, giải thích một thôi một hồi. Gã thầy tu quay lại Blackthorne:
"Người ta đóng đinh câu rút những tội phạm ở đây. Hoa tiêu! Anh sắp chết. Daimyo sắp tới cùng với những Samurai của mình. Chúa hãy rủ lòng thương xót anh."
"Daimyo là cái gì?"
"Lãnh chúa phong kiến. Ông ta thống lĩnh cả địa hạt này. Làm sao anh tới được đây?"
"Thế Samurai?".
"Những lính chiến - những người lính - những người thuộc đẳng cấp lính chiến." Gã thầy tu mỗi lúc một thêm bực tức.
"Anh từ đâu đến và các anh là ai?"
"Tôi không nhận ra giọng anh", Blackthorne nói để làm gã mất cảnh giác.
"Anh là người Spain?"
"Tôi là người Portugal." Gã thầy tu nổi đóa, bị mắc lừa.
"Tôi đã nói với anh, tôi là cha Sebastio, người Portugal. Anh học tiếng Portugal ở đâu tốt vậy hả?."
"Nhưng Portugal và Spain bây giờ là một nước", Blackthorne nói khiêu khích.
"Các anh cùng một vua."
"Chúng tôi là một nước khác. Chúng tôi là một dân tộc khác. Muôn đời vẫn là như vậy. Chúng tôi cắm cờ riêng. Sở hữu ở nước ngoài của chúng tôi là riêng, phải, riêng. Vua Philip đã đồng ý như vậy khi ông ta ăn cắp nước tôi."
Cha Sebastio cố gắng kìm mình, ngón tay gã run run:
"Ông ta đã dùng vũ lực chiếm nước tôi hai mươi năm trước đây! Binh lính của ông ta và tên quỷ bạo chúa Spain, quận công Alva! Chúng đánh bại nhà vua chân chính của chúng tôi. Bây giờ con trai của Philip thống trị nhưng ông ta cũng không phải là vua thật sự của chúng tôi. Chẳng bao lâu nữa chúng tôi sẽ đón nhà vua chúng tôi trở lại.".
Rồi gã nói một cách cay độc.
"Anh biết đó là sự thật Cái mà con quỷ Alva muốn làm với đất nước anh, hắn đã làm đối với đất nước tôi.".
"Không đúng. Alva là một tai họa đối với Holland, nhưng ông ta không bao giờ chinh phục được nó. Holland còn được tự do. Mãi mãi sẽ tự do. Nhưng ở Portugal, ông ta chỉ mới đập gẫy một đội quân nhỏ mà cả đất nước đã đầu hàng. Không có gan. Các anh có thể tống cổ người Spain đi nếu các anh muốn, nhưng các anh sẽ không bao giờ làm điều đó. Không có danh dự. Không có cojones - hột dái, tiếng Spain. Các anh chỉ biết thiêu sống những người vô tội dưới danh nghĩa Chúa."
"Chúa hãy thiêu đốt ngươi trong ngọn lửa địa ngục đời đời." Gã thầy tu nổi giận.
"Quỷ Satan đã xổng và sẽ bị đập nát. Những kẻ dị giáo sẽ bị đập nát. Các người bị nguyền rủa trước Chúa."
Bất giác, Blackthorne cảm thấy một nỗi kinh hoàng tôn giáo dâng lên trong anh.
"Lũ thầy tu các người không có cái tai của Chúa, không nói bằng giọng của Người. Chúng ta đã thoát khỏi ách thối tha của các người và chúng ta sẽ thoát mãi mãi.".
Mới bốn năm trước đây, Mary Tudor Khát Máu là hoàng hậu của England và Spain, Philip 2, Philip Bạo Tàn, là chồng của bà ta. Người đàn bà sùng đạo một cách điên rồ này, con của Henry 8, đã đem trở về những thầy tu Thiên Chúa giáo, những tòa án dị giáo, những cuộc xét xử dị giáo, sự ngự trị của Giáo hoàng nước ngoài đối với England đã đảo ngược sự kiềm chế của vua cha, những thay đổi lịch sử đối với tòa thánh La Mã ở Anh, ngược lại ý nguyện của đa số. Bà ta đã ngự trị năm năm và vương quốc bị xé nát bởi lòng căm thù, nỗi sợ hãi và sự đổ máu. Nhưng bà ta đã chết và Elizabeth trở thành Nữ hoàng năm hai mươi bốn tuổi.
Blackthorne lòng tràn đầy kinh ngạc và tình quý mến sâu xa khi anh nghĩ tới Elizabeth. Trong bốn mươi năm bà đã chiến đấu với thế giới. Bà đã khôn ngoan và chiến thắng nhiều Giáo hoàng, đế quốc La Mã thần thánh, Pháp và Spain kết hợp lại. Bị rút phép thông công, bị phỉ nhổ, bị sỉ vả ở nước ngoài, bà đã dẫn dắt Anh quốc đến bến - an toàn, hùng mạnh, độc lập.
"Chúng tôi tự do", Blackthorne nói với gã thầy tu.
"Các anh đã bị bẻ gẫy, bây giờ chúng tôi đã có trường riêng, sách riêng, kinh thánh riêng, nhà thờ riêng của chúng tôi. Người Spain của các anh thì vẫn thế. Rác rưởi! Bọn thầy tu các anh vẫn thế. Một bọn người tôn thờ tượng thần."
Gã thầy tu nâng cây thánh giá, giơ lên chắn giữa Blackthorne và gã, như một cái khiên.
"Ôi, lạy Chúa, hãy che chở chúng tôi khỏi sự độc ác này! Tôi không phải người Spain, nói để anh biết! Tôi là người Portugal. Và tôi không phải là thầy tu. Tôi là một người anh em của hội Jesus!."
"À, một tên Jesuit."
Jesuit - Hội viên của hội Thánh La Mã - The Society of Jesus. Do Ichnatius Loyota thành lập năm 1534 mục đích là để bảo vệ chế độ Giáo Hoàng và Thiên Chúa giáo chống lại sự cải cách.
"Phải. Cầu Chúa thương xót lấy linh hồn của ngươi", cha Sebastio nói giật giọng câu gì đó bằng tiếng Nhật và mấy người kia lao tới Blackthorne. Anh tựa lưng vào tường, đấm mạnh một người nhưng bị những người khác vây chặt Anh thấy mình bị ngạt thở.
"Nanigoto da?" Có chuyện gì? Tiếng Nhật.
Đột ngột cuộc loạn đả ngừng lại.
Một người trẻ tuổi đứng cách xa chừng mười bước. Anh ta mặc quần ống túm, đi guốc, mặc kimono mỏng, hai thanh kiếm tra trong vỏ giắt ở thắt lưng. Một thanh trông giống như dao găm. Thanh kia, dài và hơi cong. Bàn tay phải của anh ta để thờ ơ trên đốc kiếm.
"Nanigoto da?" anh ta hỏi gay gắt khi không ai trả lời ngay.
"Nanigoto da?.".
Những người Nhật quỳ rạp xuống, đầu cúi sát đất. Chỉ có thầy tu đứng. Gã cúi chào và bắt đầu giải thích ấp úng, nhưng người đàn ông ngắt lời gã một cách khinh bỉ và chỉ tay vào người đứng đầu:
"Mura!"
Mura, trưởng làng, đầu cúi thấp, bắt đầu giải thích nhanh. Mấy lần ông ta chỉ vào Blackthorne, một lần vào con tàu và hai lần vào gã thầy tu. Lúc này, ngoài phố không động tĩnh gì hết. Tất cả những người có mặt đều quỳ, đầu cúi thấp. Trưởng làng đã nói xong. Người đàn ông có vũ khí hỏi thêm ông ta một cách ngạo mạn, người này trả lời cung kính và nhanh. Sau đó, người đeo kiếm nói điều gì đó với trưởng làng, vung tay với vẻ khinh miệt lộ liễu đối với gã thầy tu rồi với Blackthorne và trưởng làng, nói mấy lời với gã thầy tu, gã này đỏ mặt.
Gã đeo kiếm thấp hơn và trẻ hơn Blackthorne nhiều, bộ mặt đẹp trai, hơi rỗ, chằm chằm nhìn người lạ.
"Onushi ittai doko kara kitanoda? Doko no kuni no monoda!."
Gã thầy tu nói một cách lo ngại:
"Kasigi Omi-san hỏi anh từ đâu tới và quốc tịch gì?"
"Có phải Omi-san là Daimyo không?" Blackthorne hỏi, bất giác nhìn những thanh kiếm.
"Không. Ông ấy là một Samurai, một Samurai chịu trách nhiệm làng này. Họ của ông ấy là Kasigi, Omi là tên. Ở đây người ta luôn luôn để họ lên trước.
"San" nghĩa là.
"Ngài", người ta thêm vào tên gọi để tỏ sự lễ độ. Anh nên học để có lễ độ - và tìm một cung cách cư xử. Ở đây người ta không tha thứ sự thiếu lễ độ." Giọng gã đanh lại.
"Nhanh lên, trả lời đi!"
"Amsterdam. Tôi là người Anh."
Cơn bàng hoàng của cha Sebastio lộ rõ. Gã nói:
"Người Anh. Nước Anh" với Samurai và bắt đầu giải thích nhưng Omi nóng nảy ngắt lời và tuôn ra một tràng.
"Omi-san hỏi anh có phải lãnh đạo không? Ngài trưởng làng nói có một vài kẻ dị giáo các anh còn sống và hầu hết đều bị ốm. Có hạm trưởng không?"
"Tôi là người chỉ huy", Blackthorne trả lời, mặc dù bây giờ khi họ đã ở trên bờ rồi thì hạm trưởng là người chỉ huy.
"Tôi chỉ huy", anh nói thêm, biết hạm trưởng Spillbergen chẳng chỉ huy được gì hết, dù ở trên bộ hay trên biển, ngay cả khi ông ta khoẻ mạnh.
Lại một tràng nữa của Samurai.
"Omi-san nói vì anh là chỉ huy, anh được phép đi lại tự do trong làng, muốn đi đâu thì đi cho đến khi ông chủ tới. Ông chủ của anh ta, một Daimyo, sẽ quyết định số phận của anh. Cho đến khi đó anh vẫn được phép sống như một vị khách trong nhà trưởng làng, đến và đi tùy thích. Nhưng anh không được rời khỏi làng. Nhóm thủy thủ của anh bị cầm cố trong nhà và không được phép rời nhà. Anh có hiểu không?."
"Có. Thủy thủ của tôi ở đâu?."
Cha Sebastio chỉ tay mơ hồ về dãy nhà gần bên, rõ ràng gã bối rối bởi quyết định và sự nôn nóng của Omi.
"Đó! Hãy hưởng sự tự do của ngươi, tên hải tặc, sự xấu xa của ngươi xứng với..."
"Wakari masu ka?" Omi nói trực tiếp với Blackthorne.
"Chữ CÓ, anh có hiểu không?"
"Bằng tiếng Nhật nói thế nào?"
Cha Sebastio nói với Samurai:
"Wakari masu."
Omi miệt thị vẫy họ đi. Tất cả đều cúi chào thấp. Trừ một người cố ý đứng yên không chào.
Nhanh đến lóa mắt, thanh kiếm rít lên làm thành một đường vòng cung ánh bạc, đầu người đàn ông không chào văng khỏi vai, một suối máu phun ra trên đất. Thân mình giãy giụa một lúc rồi lặng yên. Bất giác, người thầy tu lùi lại một bước. Không một người nào ở phố nhúc nhích mảy may. Đầu họ vẫn cúi thấp và bất động. Blackthorne cứng người, choáng váng.
Omi thờ ơ dẫm chân lên xác chết.
"Ikinasai!" Anh ta nói, hất tay cho mọi người đi.
Những người đàn ông đứng trước anh ta vẫn cúi sát đất. Rồi họ đứng lên và đi một cách trầm tĩnh. Đường phố bắt đầu vắng bóng người.
Cha Sebastio nhìn xuống cái xác chết, gã làm dấu thánh giá một cách long trọng và nói:
"In nomine Patris et Filii et Spiritus Sanci".
TiếngLatin: Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
Gã nhìn chăm chăm vào tay Samurai, lúc này gã không còn sợ hãi nữa.
"Ikinasai!" Đầu mũi kiếm sáng loáng dí vào cái xác chết.
Một lúc lâu sau đó, gã thầy tu quay người và bỏ đi. Vẻ tự trọng, Omi nheo mắt nhìn theo, rồi liếc nhìn Blackthorne.
Blackthorne lùi lại, rồi khi đã ở một khoảng cách yên ổn, anh nhanh chóng rẽ vào góc phố và biến mất.
Omi cười phá lên. Đường phố lúc này vắng không. Khi tiếng cười tắt, anh ta nắm chặt lấy đốc kiếm bằng cả hai tay và bắt đầu đều đặn băm cái xác thành từng mảnh nhỏ.
Blackthorne ở trong một chiếc thuyền nhỏ, người chèo thuyền vui vẻ đẩy mái chèo về phía chiếc Erasmus. Anh kiếm được chiếc thuyền này không khó khăn gì và anh có thể nhìn thấy mọi người trên sàn tàu. Tất cả đều là Samurai. Một số mặc giáp che ngực bằng thép nhưng hầu hết đều mặc kimono thường, - người ta gọi chiếc áo dài bằng cái tên như vậy,- và hai thanh kiếm. Tất cả cùng để tóc một kiểu, phía đỉnh đầu cạo nhẵn, tóc ở phía sau và hai bên gom lại thành một cái đuôi sam, bôi dầu, cuốn hai vòng trên đỉnh đầu, buộc lại gọn ghẽ. Chỉ Samurai mới được phép để như thế và đối với họ, đó là điều bắt buộc. Chỉ Samurai mới đeo hai thanh kiếm - thanh kiếm dài để chém giết, cán cầm bằng cả hai tay và thanh ngắn giống như một lưỡi dao găm. Đối với họ đó là điều bắt buộc.
Những Samurai đứng dọc bên mép tàu của anh, nhìn anh.
Lòng bồn chồn, anh trèo lên cầu tàu, đi vào sàn tàu. Một Samurai ăn mặc lịch sự hơn những người khác tiến tới và cúi chào. Blackthorne đã biết rõ cung cách này, anh cúi chào lại. Mọi người trên sàn tàu rạng rỡ hẳn lên. Anh vẫn còn cảm thấy sự rùng rợn của cách giết người đột ngột vừa rồi ở ngoài phố. Những nụ cười của họ không làm giảm sự bàng hoàng của anh. Anh đi về phía cầu thang dẫn tới cabin và dừng lại đột ngột. Một tấm lụa đỏ lớn dán ngang ô cửa, bên cạnh là một dấu nhỏ với hàng chữ loằng ngoằng kỳ dị. Anh do dự ngó sang cánh cửa bên kia, nhưng nó cũng được gắn bằng một khuông vải và một cái dấu tương tự.
Anh với tay định bóc khuông lụa.
"Hotte Oké!" Để làm cho rõ ràng hơn, người Samurai đứng gác lắc đầu. Anh ta không còn cười nữa.
"Nhưng đây là tàu của tôi và tôi muốn..."
Blackthorne cố kìm nỗi lo ngại, mắt vẫn nhìn những thanh kiếm. Mình phải xuống dưới đó, anh nghĩ. Phải lấy hải trình của mình, đó là điều bí mật. Lạy Chúa, nếu người ta tìm thấy những cái đó và trao cho các thầy tu hoặc những người Nhật thì là xong. Bất cứ một tòa án nào trên thế giới trừ England và Holland đều sẽ kết tội anh là hải tặc với chứng cớ đó. Hải trình ghi ngày tháng, địa điểm và số chiến lợi phẩm thu được, số lượng người chết trong ba cuộc đổ bộ ở châu Mỹ và một ở châu Phi, số nhà thờ bị cướp phá và việc đã đốt các thành phố và tàu bè như thế nào. Còn hải trình Portugal? Đó là giấy khai tử, bởi vì tất nhiên nó đã bị đánh cắp. Ít nhất nó cũng đã được mua của một tên phản bội Portugal và theo luật của họ, bất cứ một người nước ngoài nào bị bắt mà có giữ hải trình của họ, chưa nói đến hải trình mở đường vào eo Magellan, thì sẽ bị giết chết ngay lập tức. Và nếu hải trình đó được tìm thấy trên một tàu địch, con tàu đó sẽ bị đốt, tất cả mọi người trên tàu đều bị xử tội không chút xót thương.
"Nan no yoda?" Một Samurai nói.
"Ông có nói tiếng Portugal không?" Blackthorne hỏi.
Người đàn ông nhún vai:" Wakari masu.".
Một người khác tiến lên kính cẩn nói với người thủ lĩnh, người này gật đầu đồng ý.
"Bạn của người Portugal", người Samurai này nói tiếng Bồ nhưng phát âm rất nặng. Anh ta mở áo kimono, để lộ một cây thánh giá nhỏ bằng gỗ đeo ở cổ.
"Thiên Chúa!" anh ta chỉ vào mình và mỉm cười.
"Thiên Chúa!" Anh ta chỉ vào Blackthorne.
"Thiên Chúa không?"
Blackthorne do dự rồi gật đầu:
"Thiên Chúa!"
"Người Portugal?"
"Người Anh."
Người đàn ông nói líu lo thủ lĩnh của mình, cả hai nhún vai rồi lại nhìn anh. "Portugal?"
Blackthorne lắc đầu, không thích mình lại không đồng ý với họ về bất cứ điều gì.
"Các bạn tôi? Ở đâu?"
Người Samurai chỉ về cuối làng. "Bạn."
"Đây là tàu của tôi. Tôi muốn xuống dưới." Blackthorne nói điều đó bằng nhiều cách, gồm cả ra hiệu. Họ hiểu.
"A, so desu! Kinjiru", họ nhấn mạnh, chỉ hàng chữ và tươi cười.
Rõ ràng, anh không được phép xuống dưới. Kinjuru hẳn có nghĩa là cấm, Blackthorne bực bội nghĩ. Ờ. Mẹ kiếp! Anh giật quả đấm cửa và mở ra một chút.
"Kinjiru!"
Anh bị giật lại, giáp mặt với một Samurai. Những thanh kiếm của họ đã rút khỏi nửa bao. Đứng yên bất động, hai người đàn ông đợi anh quyết định. Những người khác trên sàn tàu ngắm nhìn dửng dưng.
Blackthorne biết, anh không còn sự lựa chọn nào khác ngoài việc lùi lại, vì vậy anh nhún vai, kiểm tra lại những sợi dây thừng lớn và cả con tàu hết sức cẩn thận. Những cánh buồm tơi tả đã được hạ xuống và buộc lại. Nhưng những sợi dãy chằng lại khác với tất cả những gì anh đã từng nhìn thấy, vì thế anh cho rằng người Nhật đã làm cho con tàu thêm chắc chắn. Anh đi xuống cầu tàu và đứng lại. Anh toát mồ hôi lạnh, khi thấy tất cả bọn họ đều nhìn anh một cách hiểm ác và lạy Chúa, anh nghĩ bụng, sao mình lại có thể ngu ngốc đến như vậy? Anh cúi chào lịch sự và lập tức sự thù địch biến mất, tất cả cúi chào lại và mỉm cười. Nhưng anh vẫn cảm thấy mồ hôi ròng ròng chảy dọc xương sống, anh căm ghét tất cả những gì dính dáng tới Nhật, anh ao ước anh và các thủy thủ của mình lại trở lại tàu, được vũ trang và giong buồm ra khơi.
"Lạy Chúa tôi, tôi nghĩ chắc là anh lầm, hoa tiêu ạ", Vinck nói. Nụ cười móm của anh ta rộng ngoác và tục tĩu.
"Nếu anh có thể chịu nổi với cái của mà người ta gọi là thức ăn, thì đó là nơi tốt nhất mà tớ được ở. Tớ đã được hai người đàn bà trong ba ngày và họ như những con thỏ. Họ sẽ làm bất cứ cái gì nếu cậu bày cách cho họ làm."
"Đúng thế. Nhưng mình chẳng làm nổi trò trống gì nếu không có thịt hoặc rượu. Chẳng thể lâu được. Tớ mệt nhoài, và tớ chỉ có thể làm được một lần",
Maetsukker nói, khuôn mặt hẹp của anh ta giật giật.
"Lũ con hoang da vàng không hiểu rằng chúng ta cần thịt, bia và bánh mỳ. Rượu mạnh hoặc vang."
"Đó là điều tồi tệ nhất! Lạy Chúa tôi, tôi sẵn sàng đổi cả nước thiên đàng lấy chút tửu!"
Baccus Van Nekk đầy u sầu. Ông bước tới, đứng bên Blackthorne, ngước lên nhìn anh. Ông cận thị nặng và đã mất đôi kính cuối cùng trong trận bão. Nhưng dù có kính chăng nữa, ông cũng vẫn luôn luôn đứng sát lại. Ông là thương nhân chính, người giữ ngân và là đại diện của Công ty Đông Ấn - Holland đã góp tiền cho cuộc hành trình này.
"Chúng ta đã ở trên bờ, yên ổn rồi mà tôi vẫn không có được một hớp rượu nào. Không một giọt rượu nào! Khủng khiếp. Cậu có được chút nào không, hoa tiêu?"
"Không" Blackthorne không thích ai gần anh nhưng Baccus là bạn, và gần như mù, vì thế anh không tránh ra chỗ khác.
"Chỉ có nước sôi với mấy cái lá trong đó."
"Họ chẳng hiểu tửu là gì. Chẳng có gì uống ngoài nước sôi và mấy cái lá - Chúa hãy cứu giúp chúng tôi! Có lẽ cả cái đất nước này không có rượu chắc?"
Lông mày ông rướn lên.
"Hoa tiêu, hãy cho tôi một ân huệ to lớn. Đi xin một ít rượu, được không?"
Blackthorne đã tìm thấy ngôi nhà họ bị giam ở góc phía Đông của làng. Người lính gác Samurai đã để anh qua, nhưng các thủy thủ của các anh xác nhận là họ không thể bước ra ngoài cổng vườn. Ngôi nhà có nhiều phòng như phòng của anh nhưng rộng hơn và có nhiều đầy tớ tuổi tác khác nhau, cả đàn ông lẫn đàn bà.
Mười một người trong số thủy thủ đoàn của anh còn sống. Những người chết đã được người Nhật đưa đi. Những suất rau tươi phong phú đã bắt đầu chữa khỏi bệnh thiếu vitamin C, và tất cả, trừ hai người, đã bình phục nhanh chóng. Hai người này trong ruột bị chảy mủ. Vinck chích cho họ nhưng cũng không ăn thua. Đến tối, anh nghĩ, họ sẽ chết. Viên hạm trưởng ở một phòng khác, vẫn đang còn rất mệt.
Sonk, người làm bếp, thấp, to ngang, bật cười nói:
"Hoa tiêu ơi, ở đây thế mà tốt, đúng như Johann nói, chỉ trừ thức ăn và không rượu. Những người bản xứ cũng không đến nỗi nào, chừng nào anh không đi giày vào nhà. Lũ con hoang da vàng phát điên nếu anh không cởi giày ra."
"Này, Blackthorne nói. Ở đây có một tên thầy tu. Một tên Jesuit."
"Lạy Chúa tôi!." Tất cả những trò đùa cợt biến mất khi anh kể cho họ nghe về gã thầy tu và về vụ chém đầu vừa rồi.
"Tại sao hắn lại chặt đầu người đó, hoa tiêu?."
"Mình không biết."
"Tốt nhất, chúng ta nên lên tàu. Nếu bọn cha cố thấy chúng ta trên bờ..." Một nỗi sợ hãi bao trùm trong phòng lúc này. Salamon, anh chàng câm nhìn Blackthorne. Mồm anh ta mấp máy, nước bọt sùi ra ở khoé miệng.
"Không. Salamon ạ, không lầm đâu", Blackthorne nói một cách nhẹ nhàng để đáp lại câu hỏi lặng câm của anh.
"Hắn nói hắn là một tên Jesuit mà.".
"Lạy Chúa tôi, Jesuit hay Dominican hoặc gì gì đi chăng nữa thì cũng chẳng khác nhau cái cứt gì", Vinck nói.
"Chúng ta nên quay lên tàu thôi. Hoa tiêu, cậu hỏi tay Samurai đó đi."
"Chúng ta ở trong tay Chúa", Jan Roper nói.
Anh ta là một trong những lái buôn phiêu lưu, mắt hẹp, trán cao, mũi mỏng.
"Chúa sẽ che chở chúng ta khỏi những kẻ thờ quỷ Sa tăng.".
Vinck nhìn Blackthorne.
"Thế còn những người Portugal, hoa tiêu? Anh có nhìn thấy ai không?"
"Không. Không có dấu hiệu gì của họ ở trong làng.".
"Chúng sẽ bu đến đây ngay khi biết chúng ta." Maetsukker nói thay cho mọi người và chú bé Croocq bật lên một tiếng rên.
"Ừ, đã có một tên thầy tu, tất phải có những tên khác.".
Ginsel liếm đôi môi khô:
"Và bọn chinh phục Spain bị Chúa nguyền rủa cũng không xa..."
"Đúng thế", Vinck nói thêm, không thoải mái.
"Chúng nó như chấy.".
"Lạy Chúa tôi! Lũ thầy tu!" Có người nào lẩm bẩm.
"Và lũ chinh phục Spain!."
"Nhưng chúng ta đang ở Nhật, phải không hoa tiêu?" Van Nekk hỏi.
"Anh ta bảo với anh thế?"
"Ừ, sao?."
Van Nekk xích lại gần hơn và hạ giọng:
"Nếu như có thầy tu ở đây và một vài người bản xứ là công giáo thì có lẽ cái phần kia là đúng - về sự giàu có, vàng, bạc và đá quý ấy." Tất cả đều im lặng.
"Anh có thấy chút gì không, hoa tiêu? Có vàng không? Có đá quý ở những người bản xứ, hoặc vàng không?"
"Không. Không có gì hết", Blackthorne suy nghĩ một lúc." Mình không nhớ đã nhìn thấy được gì. Không có vàng đeo cổ, chuỗi hạt hoặc vòng xuyến gì. Mà này, còn điều này nữa kể cho các cậu nghe. Mình đã lên tàu nhưng nó bị niêm phong rồi." Anh kể lại những điều đã xảy ra và nỗi lo ngại của họ tăng lên.
"Lạy Chúa tôi, nếu chúng ta không thể trở lại tàu, lại có cả thầy tu. Chúng ta phải đi khỏi đây thôi." Giọng Maetsukker bắt đầu run lên.
"Hoa tiêu, chúng ta sẽ làm gì đây? Họ sẽ thiêu sống chúng ta! Những tên chinh phục Spain - những thằng con hoang đó sẽ xọc kiếm của chúng..."
"Chúng ta ở trong tay Chúa", Jan Roper nói to một cách tự tin.
"Người sẽ che chở chúng ta khỏi những kẻ nghịch Chúa. Đó là lời hứa của Người. Chằng có gì phải sợ.".
Blackthorne nói:
"Cái cách Samurai Omi-san càu nhàu với gã thầy tu, tôi chắc anh ta ghét gã. Như vậy là tốt phải không? Điều tôi muốn biết là tại sao gã thầy tu lại không mặc chiếc áo dài bình thường của họ? Tại sao lại chiếc áo màu da cam? Trước đây tôi chưa bao giờ nhìn thấy cái đó.".
"Đúng, lạ thật!." Van Nekk nói.
Blackthorne nhìn lên.
"Có lẽ ảnh hưởng của họ ở đây không mạnh. Điều đó có thể giúp chúng ta rất nhiều."
"Chúng ta nên làm gì, hoa tiêu?" Ginsel hỏi.
"Hãy kiên nhẫn và đợi thủ lĩnh của họ, Daimyo tới. Ông ta sẽ để chúng ta đi. Tại sao lại không? Chúng ta chẳng làm gì hại cho họ. Chúng ta có hàng hóa để buôn bán. Chúng ta không phải là hải tặc. Chúng ta chẳng có gì để sợ cả."
"Rất đúng, và đừng quên, hoa tiêu nói bọn rợ không phải tất cả đều là công giáo", Van Nekk nói để tăng dũng khí cho chính mình hơn là cho những người khác.
"Phải. Anh chàng Samurai ghét gã thầy tu là điều tốt. Và chỉ có Samurai mới được vũ trang thôi. Cũng không đến nỗi quá xấu, phải không? Canh chừng bọn Samurai và lấy lại vũ khí của chúng ta. Ý kiến là như thế. Chúng ta sẽ lên tàu ngay cho mà xem.".
"Ngộ nhỡ cái gã Daimyo này lại là cha cố thì sao?" Jan Roper hỏi.
Không ai trả lời. Sau đó Ginsel nói:
"Hoa tiêu, cái anh chàng đeo kiếm hả? Hắn ta băm cái gã da vàng kia thành từng mảnh sau khi chặt đầu gã à?"
"Ừ."
"Lạy Chúa! Họ là những kẻ man rợ! Những kẻ mất trí." Ginsel là một thanh niên cao, đẹp trai, cánh tay ngắn, chân đi vòng kiềng. Bệnh thiếu vitamin C đã làm anh mất hết răng.
"Sau khi hắn chặt đầu gã kia, những người khác cứ thế bỏ đi? Không nói điều gì cả?"
"Lạy Chúa tôi, một người không có vũ khí bị giết chết như vậy ư? Tại sao hắn lại làm như vậy? Tại sao hắn lại giết anh ta?"
"Mình không biết, Ginsel ạ. Nhưng cậu không bao giờ nhìn thấy một tốc độ như vậy. Gươm vừa tuột khỏi vỏ, đầu người đàn ông đã lăn lông lốc.".
"Chúa che chở cho chúng ta!"
"Lạy Chúa tôi", Van Nekk lẩm bẩm.
"Nếu chúng ta không thể trở lại tàu. Trận bão đáng nguyền rủa. Không có kính tôi thấy bất lực quá đi!"
"Có bao nhiêu Samurai trên tàu, hoa tiêu?" Ginsel hỏi.
"Hai mươi hai trên sàn tàu. Nhưng trên bờ thì nhiều hơn."
"Cơn giận của Thượng đế sẽ giáng xuống những người ngoại đạo và những kẻ có tội, họ sẽ bị thiêu đốt đời đời trong địa ngục.".
"Tôi muốn biết chắc điều đó, Jan Roper", Blackthorne nói, giọng gai gai khi anh cảm thấy nỗi sợ về sự báo thù của Chúa lướt qua căn phòng. Anh rất mệt và muốn ngủ.
"Anh có thể chắc được điều đó không, hoa tiêu, tôi thì tôi chắc. Tôi cầu xin đôi mắt anh mở ra trước chân lý của Chúa. Cầu xin Chúa để anh hiểu được rằng chúng tôi ở đây chỉ bởi tại anh, những cái chúng tôi còn lại."
"Cái gì?" Blackthorne nói một cách nguy hiểm.
'Tại sao anh lại cố thuyết phục hạm trưởng thử tạt vào Nhật Bản? Trong mệnh lệnh của chúng ta không có điều đó. Lệnh của chúng ta là cướp phá Tân thế giới, đưa chiến tranh vào trong lòng địch rồi về.".
"Có tàu Spain ở phía Nam và phía Bắc chúng ta, và không còn nơi nào khác để chạy cả. Trí nhớ của anh có còn cùng với trí khôn của anh không? Chúng ta phải đi về phía Tây, đó là cơ hội duy nhất của chúng ta.".
"Tôi chưa hề nhìn thấy tàu của địch, hoa tiêu ạ. Không một ai trong chúng ta nhìn thấy.".
"Thôi nào, Gian", Van Nekk nói mệt mỏi.
"Hoa tiêu đã làm điều anh ấy nghĩ là tốt nhất. Tất nhiên là có những người Spain ở đó.".
"Ừ, đó là sự thật Chúng ta ở cách bạn bè hàng ngàn hải lý và ở trong vùng biển của địch, lạy Chúa.". Vinck nhổ nước miếng.
"Đó là chân lý của Chúa - và chân lý của Chúa là chúng ta đã tiến hành biểu quyết. Tất cả đều nói có."
"Tôi không.". Sonk nói:
"Không ai hỏi tôi."
"Ôi, lạy Chúa tôi!"
"Bình tĩnh, Johann", Van Nekk nói, cố làm dịu sự căng thẳng.
"Chúng ta là những người đầu tiên đến Nhật Bản. Các cậu có nhớ mọi chuyện không hả? Chúng ta giàu nếu như chúng ta giữ được sự minh mẫn của mình. Chúng ta có hàng buôn và ở đây có vàng - hẳn phải như vậy. Chúng ta còn bán được hàng hóa của mình ở nơi nào?
Không phải ở Tân thế giới, nơi bị săn đuổi và phá xơ xác! Họ đang săn đuổi chúng ta, và những người Spain biết chúng ta đã ra khỏi Santa Maria, một tỉnh ở phía nam Brazil. Chúng ta phải rời Chile và không có đường trở lại qua eo Gibranta, tất nhiên họ sẽ phục kích chúng ta, nhất định là như thế. Không, đây chính là một cơ hội duy nhất của chúng ta. Hàng hóa của chúng ta có thể đổi lấy hương liệu, vàng và bạc. Hãy nghĩ tới nguồn lợi - hàng nghìn lần đó là bình thường. Chúng ta đang ở trên bán đảo hương liệu. Các cậu biết sự giàu có của Nhật Bản và Cathay. Các cậu vẫn nghe hoài những chuyện đó. Tất cả chúng ta đều nghe nói. Nếu không thì tại sao tất cả chúng ta đều ký vào? Chúng ta sẽ giàu, rồi mà xem!"
"Chúng ta hết đời rồi, giống như tất cả những người khác. Chúng ta đang ở trên đất của Satan.".
Vinck giận dữ nói:
"Câm miệng, Roper! Hoa tiêu làm đúng. Những người khác chết không phải lỗi của anh ấy. Không phải lỗi của anh ấy. Người ta thường chết trong những chuyến đi như thế.".
Đôi mắt của Jan Roper bạc đi, đồng tử nhỏ lại." Phải cầu Chúa cho linh hồn họ được bình yên. Anh trai tôi ở trong số đó.".
"Good" Blackthorne nhìn vào đôi mắt cuồng tín đó, lòng thấy căm ghét Jan Roper.
Anh cũng đang tự hỏi có thực anh đi về phía Tây để tránh tàu địch không? Hay vì anh là hoa tiêu Anh đầu tiên vượt qua eo Gibranta?
Jan Roper rít lên:
"Có phải những người khác đã chết vì tham vọng của anh không, hoa tiêu? Chúa sẽ trừng phạt anh!"
"Thôi câm mồm đi", Blackthorne nói nhẹ nhàng mà dứt khoát.
Jan Roper nhìn lại, cũng với nét mặt co rúm và băng giá như vậy, nhưng không nói gì.
"Tốt.". Blackthorne mệt mỏi ngồi xuống sàn và tựa vào một tấm ván.
"Chúng ta phải làm gì, hoa tiêu?"
"Đợi và nghỉ để cho người khỏe lên đã. Thủ lĩnh của họ sắp tới, rồi chúng ta sẽ giải quyết mọi sự.".
Vinck nhìn ra ngoài vườn, nhìn người Samurai ngồi xổm bất động bên cổng.
"Hãy nhìn cái thằng chó đẻ kia xem. Nó ở đấy hàng tiếng đồng hồ, không hề nhúc nhích, không hề nói một lời nào, thậm chí cũng không hề nhích mũi nữa.".
"Tuy nhiên, hắn ta cũng chẳng phiền nhiễu gì, Johann. Không một chút nào hết", Van Nekk nói.
"Đúng, cho đến giờ, chúng ta chỉ có ngủ, ăn rau cỏ."
"Hoa tiêu, hắn có một người, chúng ta có mười", Ginsel nói lặng lẽ.
"Tôi đã nghĩ đến điều đó. Nhưng chúng ta còn chưa đủ khỏe. Phải mất một tuần cho hết cái bệnh thiếu vitamin C này đi", Blackthorne trả lời, lòng bồn chồn.
"Trên tàu, bọn chúng rất đông. Không có giáo hoặc súng, tôi không muốn đánh nhau. Ban đêm, các anh có bị gác không?"
"Có. Họ đổi gác ba, bốn lần."
"Có ai thấy người gác ngủ không?" Van Nekk hỏi.
Họ lắc đầu.
"Chúng ta có thể lên thuyền đêm nay", Jan Roper nói." Với sự giúp đỡ của Chúa; chúng ta sẽ tiêu diệt bọn ngoại đạo và đoạt lấy tàu."
"Nói thối không ngửi được. Hoa tiêu vừa nói với các cậu cậu không nghe à?" Vinck nhổ toẹt xuống đất một cách khó chịu.
"Đúng", Pieterzoon, người bắn súng máy đồng ý.
"Thôi, đừng càu nhàu ông bạn già Vinck nữa."
Đôi mắt Jan Roper càng hẹp lại.
"Hãy lo cho cái linh hồn của ngươi, Johann Vinck và của ngươi nữa, Pieterzoon. Ngày phán xét đã đến gần." Anh ta bỏ đi và ngồi trên hàng hiên.
Van Nekk phá vỡ sự yên lặng:
"Mọi sự rồi sẽ ổn thôi. Rồi các cậu sẽ thấy.".
"Roper nói đúng đấy. Sự tham lam đã đưa chúng ta đến đây." Croocq nói, giọng cậu bé run lên.
"Chính là sự trừng phạt của Chúa, nên..."
"Thôi đi."
Cậu bé giật người lại:
"Đúng thế, hoa tiêu. Xin lỗi, nhưng mà - ờ…" Maximilian Croocq là người trẻ nhất trong bọn, mới mười sáu tuổi và cậu đã xin đi trong cuộc hành trình này bởi vì cha cậu là một thuyền trưởng của một trong những chiếc tàu mà nhờ đó họ sẽ làm giàu.
Nhưng cậu đã thấy cha cậu chết thảm thương trong lần họ tàn phá tỉnh Santa Magdellana ở Argentine. Vụ cướp bóc thật lớn và cậu đã thấy hãm hiếp là thế nào. Chính cậu cũng đã thử và thấy ghét chính mình say trong mùi máu và giết chóc. Sau đó cậu đã thấy nhiều bạn bè bị chết, năm chiếc tàu chỉ còn lại một và bây giờ cậu cảm thấy mình là người già nhất trong bọn.
"Xin lỗi. Tôi xin lỗi."
"Chúng ta ở trên bờ được bao lâu rồi, Baccus?" Blackthorne hỏi.
"Hôm nay là ngày thứ ba", Van Nekk xích lại gần, ngồi chồm hỗm.
"Không nhớ rõ lúc chúng ta đến như thế nào, khi tỉnh dậy thì lũ rợ đã ở khắp tàu. Tuy nhiên, chúng lễ độ và tử tế. Cho chúng tôi thức ăn và nước nóng. Họ đưa người chết đi và thả neo. Tôi không nhớ nhiều nhưng tôi nghĩ họ kéo chúng tôi về bờ an toàn. Khi họ khiêng anh lên bờ, anh đang mê sảng. Chúng tôi muốn giữ anh lại nhưng họ không nghe. Một người trong bọn họ nói mấy tiếng Bồ. Ông ta hình như là người đứng đầu, tóc hoa râm. Ông ta không hiểu chữ.
"Thiếu tá hoa tiêu" nhưng hiểu chữ.
"Chỉ huy." Rõ ràng ông ta muốn.
"Chỉ huy" của chúng tôi phải có một chỗ ở riêng khác, nói chúng tôi không phải lo lắng vì anh sẽ được trông nom cẩn thận. Cả chúng tôi nữa. Rồi ông ta dẫn đến đây, hầu hết là phải khiêng chúng tôi, nói chúng tôi phải ở lại trong này chờ chỉ huy tới. Chúng tôi không muốn để cho họ mang anh đi, nhưng không biết làm thế nào khác. Anh có hỏi trưởng làng về rượu vang và rượu mùi không, hoa tiêu?" Van Nekk liếm môi thèm khát rồi nói thêm:
"Bây giờ nghĩ lại, đúng là ông ta cũng có nhắc tới Daimyo. Cái gì sẽ xảy ra khi Daimyo tới.".
"Có ai có dao hay khẩu súng gì không?"
"Không", Van Nekk nói và lơ đãng gãi chấy trên đầu.
"Họ đem tất cả quần áo của chúng tôi đi giặt và giữ lại vũ khí. Lúc ấy, tôi không nghĩ gì về chuyện đó cả. Họ lấy cả chùm chìa khóa và súng của tôi. Tôi để tất cả một chùm. Phòng an toàn, hộp an toàn và hộp đạn."
"Mọi thứ đều khóa chặt trên tàu rồi. Không cần phải lo ngại về điều đó."
"Tôi không thích mình không có khóa. Nó làm tôi thấy rất bồn chồn. Mắt mình khỉ thật! Mình có thể dùng một chai rượu ngay lúc này. Thậm chí một chai bố rượu chát cũng được.".
"Lạy Chúa! Tên sameri băm anh ta ra từng mảnh à?" Sonk nói bâng quơ.
"Vì lòng mến Chúa, hãy câm cái miệng lại, Samurai chứ không phải sameri. Chỉ mình cậu thôi cũng đủ làm cho người ta vãi cứt ra quần", Ginsel nói.
"Tôi mong cái thằng thầy tu chó đẻ ấy đừng đến đây.", Vinck nói.
"Chúng ta an toàn trong bàn tay Chúa.". Van Nekk vẫn cố tỏ ra tin tưởng..." Khi Daimyo tới, chúng ta sẽ được thả. Chúng ta sẽ lấy lại tàu và súng. Rồi các anh xem. Chúng ta sẽ bán tất cả hàng hóa của chúng ta, sẽ trở về Holland giàu có và bình yên mà lại được đi vòng quanh thế giới nữa - những người Holland đầu tiên. Bọn Thiên Chúa sẽ tong đời, chỉ có vậy thôi.".
"Không, không phải đâu." Vinck nói.
"Bọn truyền đạo làm cho da thịt tôi nổi gai lên. Không thể đừng được. Cả khi nghĩ tới bọn đi chinh phục nữa. Anh có nghĩ rằng ở đây chúng nó đông không, hoa tiêu?"
"Tôi cũng không biết, nhưng tôi nghĩ là đông. Tôi ao ước mình có một đại đội ở đây."
"Những thằng con hoang tội nghiệp", Vinck nói.
"Ít nhất thì chúng ta vẫn còn sống..."
Maetsukker nói:
"Có thể họ đã về nhà. Có thể họ quay lại eo Magellan khi những cơn bão làm ta tơi tả..."
"Tôi hi vọng anh nói đúng", Blackthorne nói.
"Nhưng tôi nghĩ họ đã hi sinh tất cả..."
Ginsel rùng mình.
"Ít nhất thì chúng ta vẫn còn sống."
"Có bọn truyền đạo ở đây cùng lũ ngoại đạo này với tính tình thối hoắc của chúng thì đến cái rắm của một con đĩ tôi cũng không dám lấy để đảm bảo cho mạng chúng mình..."
"Đáng nguyền rủa thay ngày tớ rời Holland mà đi", Pieterzoon nói.
"Đáng nguyền rủa cả cái lũ ngoại quốc. Nếu tớ không nghiện ngập bét nhè thì có phải tớ đã vùi đầu xuống lòng con mụ vợ tớ ở Amsterdam rồi không."
"Muốn chửi cái gì thì chửi, Pieterzoon ạ, nhưng đừng chửi rượu. Đó là men của đời!"
"Có thể chúng ta đã ở trong cống ngập đến cằm rồi và nước đang chảy xiết", Vinck đảo ngược mắt lên.
"Phải. Rất xiết..."
"Tôi không bao giờ nghĩ chúng ta lại tới đất liền", Maetsukker nói. Anh ta giống như một con chồn sương, chỉ khác là không có răng.
"Không bao giờ. Càng không bao giờ là Nhật Bản. Đồ thầy tu thối tha. Chúng ta sẽ chẳng bao giờ sống sót mà thoát khỏi nơi đây. Tôi ước giá như mình có súng. Cập bờ như thế này thật đốn mạt. Tôi không có ý định gì đâu, hoa tiêu ạ".
Anh ta nói nhanh khi Blackthorne nhìn anh ta.
"Thật là rủi, có thế thôi..."
Sau đó, những người đày tớ lại đem cho họ thức ăn. Bao giờ cũng giống nhau: rau - luộc hoặc sống - với một chút dấm, canh cá, cháo đặc bằng lúa mỳ hay lúa mạch. Tất cả đều gạt bỏ những miếng cá sống nho nhỏ và đòi thịt rượu. Nhưng không ai hiểu gì họ, và gần đến lúc mặt trời lặn, Blackthorne ra đi. Anh đã mệt vì những nỗi lo sợ sự căm thù và cái tục tằn của họ. Anh nối với họ sẽ lại đến sau khi mặt trời mọc.
Những cửa hàng nhộn nhịp trên những phố hẹp. Anh đã tìm thấy phố của anh, cổng của ngôi nhà anh. Những vết máu trên mặt đất đã được quét dọn và xác chết đã biến mất. Cứ y như nằm mơ thấy mọi sự, anh nghĩ. Cổng vườn mở trước khi anh kịp đặt tay vào.
Người làm vườn già, vẫn đóng khố, mặc dầu đã có khí lạnh trong gió, tươi cười cúi chào.
"Konbanwa". Ttiếng Nhật - Chào buổi tối.
"Chào", Blackthorne nói không suy nghĩ. Anh bước lên những bậc thềm, dừng lại và nhớ ra đôi ủng của mình. Anh cởi ra và đi chân đất qua hàng hiên vào trong phòng. Anh đi qua phòng, lại ra một hàng hiên nhưng không tìm thấy phòng của mình.
"Onna.", anh cất tiếng.
Một người đàn bà già xuất hiện." Hai" - Dạ.
"Onna" đâu?"
Người đàn bà già cau mặt và chỉ vào mình:
"Onna!"
"Ồ, Chúa ơi", Blackthorne nói bực tức.
"Phòng của tôi đâu? Onna đâu?" Anh kéo một cánh cửa gỗ ra. Bốn người Nhật đang ngồi ăn trên sàn, quanh một cái bàn thấp. Anh nhận ra người có mái tóc hoa râm, trưởng làng, người đi cùng với gã thầy tu. Tất cả đều cúi chào.
"Ồ, xin lỗi", anh nói và kéo cánh cửa lại.
"Onna!" Anh gọi to.
Người đàn bà suy nghĩ một lát, rồi vẫy tay. Anh đi theo bà ta vào một hành lang khác. Bà kéo cánh cửa sang một bên. Nhờ cây thánh giá, anh nhận ra phòng mình. Những tấm chăn đã được gấp lại gọn gàng.
"Cám ơn", anh nói, nhẹ người.
"Bây giờ. hãy đi tìm Onna!"
Bà già lạch bạch đi. Anh ngồi xuống. Đầu và khắp người đau nhức, ước có một cái ghế, tự hỏi không hiểu họ để ghế ở đâu. Làm sao lên tàu được? Làm thế nào kiếm được ít súng? Phải có cách. Những bước chân lệt xệt trở lại, lúc này là ba người phụ nữ, một bà già, một cô gái trẻ mặt tròn và một phụ nữ trung niên.
Người đàn bà già chỉ vào cô gái, cô này dường như hơi sợ:
"Onna..."
"Không..."
Blackthorne đứng lên bực dọc, chỉ một ngón tay vào người phụ nữ trung niên.
"Đây là Onna, Jesuma! Bà không biết tên bà nữa sao? Onna! Tôi đói. Cho tôi một ít thức ăn được không?." Anh xoa vào bụng mình ra hiệu đói. Mấy người đàn bà nhìn nhau. Rồi người phụ nữ trung niên nhún vai, nói điều gì đó làm cho hai người kia cười, bà ta tiến lại giường, bắt đầu cởi quần áo. Hai người kia ngồi xổm, mắt giương tròn chờ đợi.
Blackthorne kinh hoàng:
"Bà làm gì vậy?"
"Ishimasho!" Bà ta nói và để chiếc thắt lưng to bản sang một bên, mở áo kimono. Đôi vú của bà phẳng bẹt, khô cằn và cái bụng to kềnh.
Rõ ràng bà ta sắp bước lên giường. Anh lắc đầu, bảo bà ta mặc áo vào, cầm lấy cánh tay bà ta. Tất cả bắt đầu nói líu ríu, vung chân vung tay, người đàn bà trở nên tức giận. Bà ta tụt váy, trần truồng, cố gắng bước trở lại giường.
Tiếng nói líu lo của họ dừng lại, tất cả cúi chào khi người trưởng làng lặng lẽ bước xuống hành lang.
"Nan đa? Nan đa?" Ông ta hỏi.
Người đàn bà giải thích mọi chuyện.
"Ông cần người đàn bà này?" ông ta hỏi hồ nghi bằng một thứ tiếng Portugal nặng trịch hầu như không thể hiểu nổi, chỉ tay vào người đàn bà trần truồng.
"Không. Không. Tất nhiên là không. Tôi chỉ cần Onna kiếm cho tôi một ít thức ăn..." Blackthorne chỉ tay vào bà ta một cách thiếu kiên nhẫn.
"Onna!"
"Onna có nghĩa là đàn bà..." Trưởng làng chỉ vào tất cả mấy người đàn bà.
"Onna - Onna - Onna. Ông muốn đàn bà?"
Blackthorne mệt mỏi lắc đầu.
"Không, không, cám ơn. Tôi lầm lẫn. Xin lỗi. Tên bà ấy là gì?"
"Gì cơ ạ?"
"Tên bà ấy là gì?"
"À! Tên Haku, Haku", ông ta nói.
"Haku?"
"Hai, Haku..."
"Tôi cứ nghĩ onna là tên của bà."
Người trưởng làng giải thích cho Haku, bà này không mấy hài lòng. Nhưng ông ta nói điều gì đó, tất cả nhìn Blackthorne, che miệng cười khúc khích và đi. Haku cũng trần truồng bỏ đi, chiếc áo kimono vắt trên cánh tay, hết sức đĩnh đạc, tư thế.
"Cảm ơn", Blackthorne nói, tự giận sự ngu dốt của mình.
"Đây là nhà của tôi. Tên tôi là Mura..."
"Mura-san. Tên tôi là Blackthorne..."
"Cái gì cơ ạ?"
"Tôi tên là Blackthorne..."
"À, Blackthorne.
", Mura cố nhắc đi nhắc lại mấy lần nhưng không nói được. Cuối cùng, ông ta chịu và lại tiếp tục quan sát cái anh chàng khổng lồ trước mặt. Đây là anh chàng rợ đầu tiên ông ta thấy ngoài cha Sebastio. Nhưng mà, ông ta nghĩ, các thầy tu tóc đen, mặt đen, tầm vóc trung bình. Còn người đàn ông này: cao lớn, tóc vàng ánh, râu vàng ánh, mắt xanh, da có màu nhợt kỳ lạ ở chỗ quần áo che kín, màu đỏ ở chỗ để lộ ra. Lạ lùng! Mình lại cứ nghĩ tất cả đàn ông đều có tóc đen và mắt đen. Tất cả chúng tôi là như thế mà. Người Trung Quốc cũng thế, mà Trung Quốc chẳng phải là tất cả thế giới, trừ mảnh đất của rợ Portugal ở phương Nam? Có đáng ngạc nhiên không chứ? Mà tại sao cha Sebastio lại ghét người này như thế? Vì anh ta là người thờ Satan chăng? Mình không nghĩ như vậy bởi vì cha Sebastio có thể đuổi được quỷ dữ nếu ông ta muốn. Mình chưa bao giờ thấy cha Sebastio tốt bụng giận dữ đến như thế. Chưa bao giờ. Ngạc nhiên thật!
Phải chăng mắt xanh và tóc vàng là dấu hiệu của Satan? Mura ngước nhìn lên Blackthorne và nhớ đã hỏi anh khi còn ở trên tàu. Người chỉ huy này sau đó đã bất tỉnh, ông ta quyết định mang anh tới nhà riêng của mình vì anh là người chỉ huy nên cần có sự quan tâm đặc biệt. Họ đặt anh lên tấm chăn, cởi quần áo của anh ra không chỉ vì tò mò.
"Những bộ phận không thể chê trách được của ông ta rõ ràng là đáng chú ý nhỉ?" Mẹ của Mura, Saiko nói.
"Không hiểu lúc cứng lên, nó to bằng bao nhiêu?"
"To." Mura trả lời và tất cả đều cười, mẹ, vợ, bạn bè, đầy tớ và người bác sĩ.
"Em nghĩ chắc phụ nữ của họ phải khoái ghê lắm", cô vợ Niji của ông ta nói.
"Chỉ vớ vẩn thôi, con ạ.
", bà mẹ nói." Các cô gái làng chơi của chúng ta chắc sẽ lấy làm sung sướng tiếp đãi.". Bà lắc đầu kinh ngạc." Cả đời mẹ chưa bao giờ thấy một cái gì như của ông này. Thật là lạ nhỉ?"
Họ tắm rửa cho anh, anh vẫn chưa tỉnh. Bác sĩ cho rằng không nên tắm quá cẩn thận khi nào anh chưa tỉnh dậy.
"Thưa Mura-san, có lẽ chúng ta chưa biết kẻ rợ này là thế nào", ông nói vẻ khôn ngoan thận trọng.
"Hết sức xin lỗi. Chúng ta có thể giết ông ấy vì lầm lẫn. Rõ ràng ông ấy kiệt sức rồi. Chúng ta phải kiên nhẫn..."
"Nhưng lũ chấy ở trên đầu ông ta thì sao?" Mura hỏi.
"Cứ để nó ở đấy lúc này. Tôi biết tất cả bọn rợ đều có. Xin lỗi. Tôi khuyên nên kiên nhẫn..."
"Ông có nghĩ rằng chúng ta có thể gội đầu cho ông ấy được không?
"Cô vợ ông ta hỏi.
"Chúng ta sẽ rất cẩn thận, tôi chắc bà sẽ giám sát những cố gắng nhỏ bé của chúng ta. Như vậy, sẽ giúp người rợ này và giữ cho nhà của chúng ta sạch sẽ..."
"Mẹ đồng ý. Con có thể gội đầu cho ông ta", bà mẹ quyết định." Nhưng mẹ vẫn muốn biết khi cứng lên, cái của ông ta to bao nhiêu?"
Bất giác, Mura nhìn xuống Blackthorne. Thế rồi ông ta nhớ lại điều người thầy tu đã kể cho họ nghe về quỷ Satan và bọn hải tặc. Cha ở trên trời hãy che chở cho chúng tôi khỏi sự độc hại này, ông ta nghĩ. Giá tôi biết được cái gã này nguy hiểm như vậy thì tôi đã chẳng đem gã vào nhà mình. Không, ông tự nhủ. Ta bắt buộc phải đối xử với anh ta như một vị khách đặc biệt cho đến khi Omi-san nói khác đi. Nhưng khôn ngoan nhất là phải báo cho thầy tu và Omi-san ngay. Rất khôn ngoan. Mình là trưởng làng, mình phải bảo vệ làng, và chỉ có một mình mình chịu trách nhiệm.
Đúng. Omi-san sẽ bắt mình phải chịu trách nhiệm về cái chết sáng hôm nay và sự láo xược của kẻ đã chết. Mà đúng thôi.
"Đừng ngu ngốc, Tamazaki! Anh muốn làm mang tiếng cả làng hả?" ông ta đã cảnh cáo người bạn đánh cá của mình hàng chục lần.
"Đừng cố chấp như vậy. Omi-san không còn cách nào khác đành phải khinh rẻ những người Thiên chúa giáo. Chẳng lẽ Daimyo của chúng ta không ghét bỏ người Thiên Chúa giáo đó sao? Omi-san có thể làm gì khác được?"
"Không thể làm gì khác được, tôi đồng ý, Mura-san, xin tha lỗi cho tôi",- Tamazaki luôn trả lời như vậy.
"Nhưng những người theo đạo Phật nên có lòng khoan dung hơn chứ? Họ chẳng là những Thiên sứ đó sao? Thiền của nhà Phạt là kỷ luật tự thức, nó chủ yếu dựa vào tự cứu và Thiền để tìm ra sự sáng láng. Hầu hết các võ sĩ đạo đều thuộc phái Thiền của nhà Phật bởi vì nó thích hợp với người lính chiến đầy tự hào đi tìm cái chết..."
"Phải, đạo Phật dạy lòng khoan dung. Nhưng người ta phải nhắc anh đến lần thứ bao nhiêu rằng họ là Samurai, và đây là Izu chứ không phải là Kyushu, mà dù có là Kyushu chăng nữa thì người sai vẫn là anh, luôn luôn là vậy phải không?"
"Vâng. Xin tha lỗi cho tôi. Tôi biết tôi sai. Nhưng đôi khi tôi cảm thấy không thể sống được với nỗi xấu hổ trong lòng khi Omi-san phỉ báng Niềm Tin Chân Chính.".
Và bây giờ, Tamazaki, anh đã chết đứng với sự lựa chọn của mình bởi vì anh đã lăng nhục Omi-san, đã không cúi chào chỉ bởi ông ấy nói..."cái gã thầy tu nặng mùi." của một tôn giáo xa lạ. Dù cho người thầy tu có nặng mùi và Niềm Tin Chân Chính là xa lạ, ông bạn tội nghiệp của tôi ạ, cái sự thật ấy cũng không nuôi sống gia đình anh bây giờ hay gột được vết nhơ ra khỏi làng tôi.
Ôi, Đức Mẹ đồng trinh, hãy ban phước lành cho ông bạn cũ của tôi và cho ông ấy hưởng niềm vui trên thiên đường.
Sẽ còn nhiều điều phiền phức với Omi-san đây, Mura tự nhủ. Và nếu còn chưa đủ tồi tệ thì Daimyo của chúng ta lại sắp đến rồi đó.
Một nỗi lo ngại ghê gớm luôn choán ngợp lấy ông ta mỗi khi nghĩ đến vị chúa phong kiến của mình, Kasagi Yabu, Daimyo của Izu, chú của Omi. Sự tàn ác và vô sỉ của con người này, cái cách ông ta lừa lọc tất cả mọi làng về những khoản thu hoạch mùa màng chính đáng của họ, sự cai trị hà khắc của ông ta... Khi chiến tranh tới, Mura tự hỏi, không biết Yabu sẽ tuyên bố đứng về phía nào? Chúa Ishido hay chúa Toranaga? Chúng ta mắc kẹt giữa hai người khổng lồ đó và bị cầm tù bởi cả hai người ấy.
Ở phía Bắc, Toranaga, vị tướng lớn nhất từ trước đến nay, chúa của tám tỉnh Kuanto, vị Daimyo quan trọng nhất đất nước, Tổng tư lệnh quân đội miền Đông. Ở phía Tây, lĩnh vực của Ishido, chúa của lâu đài Osaka, người chinh phục Triều Tiên, quan Bảo Quốc của Hoàng tử Nhiếp chính, Tổng tư lệnh quân đội miền Tây. Ở phía Bắc, Tokaido, con đường duyên hải lớn nối Yedo, thủ phủ của Toranaga với Osaka, thủ phủ của Ishido, quân đoàn của họ phải hành quân ba trăm dặm về phía tây.
Ai sẽ thắng trong cuộc chiến tranh?
Không ai thắng cả.
Bởi vì cuộc chiến tranh của họ sẽ lại bao trùm toàn đế quốc, những liên minh sẽ tan vỡ, các tỉnh này sẽ đánh tỉnh khác cho đến khi làng này đánh làng khác, như vẫn hàng đời xảy ra. Chỉ trừ mười năm gần đây. Trong mười năm qua, thật không thể nào tin nổi, một tình trạng không chiến tranh, gọi là hòa bình trên khắp đế quốc, tồn tại lần đầu tiên trong lịch sử.
Mình đã bắt đầu yêu thích hòa bình rồi đây, Mura nghĩ.
Nhưng người làm ra hòa bình đã chết. Người chiến binh nông dân đã trở thành Samurai, rồi làm tướng, rồi trở thành vị tướng vĩ đại nhất và cuối cùng là Quan Bảo Quốc tuyệt đối của Nhật Bản, đã chết một năm trước và người con trai bảy tuổi của ông còn quá nhỏ, không thể kế nghiệp quyền uy tối cao như vậy. Vì thế đứa bé cũng giống như chúng ta đang bị kẹt giữa hai vị khổng lồ. Và chiến tranh là không thể tránh được. Bây giờ ngay cả Taiko nữa cũng không thể che chở được cho đứa con trai yêu quý nối nghiệp cho vương triều, đế quốc của mình.
Có lẽ sự việc phải như thế, Taiko đã thâu tóm đất đai, lập hòa bình, buộc tất cả các Daimyo phải phủ phục như những người nông dân trước mặt mình, sắp đặt lại các thái ấp cho hợp với ý thích của ông, cất nhắc một số, hạ bệ một số khác - thế rồi ông chết. Ông là một người khổng lồ giữa những người lùn. Nhưng có lẽ tất cả sự nghiệp của ông, sự vĩ đại của ông chết theo ông là điều đúng. Phải chăng con người chỉ là một bông hoa cuốn đi theo gió, chỉ có núi, biển và những vì sao và mảnh đất này của các vị thần linh là thật, là vĩnh hằng?
Tất cả chúng ta đều bị mắc bẫy, đó là một sự thật. Chiến tranh chẳng bao lâu nữa sẽ tới, đó là một sự thật. Chỉ riêng Yabu sẽ quyết định chúng ta đứng về phía nào, đó là một sự thật. Làng này sẽ mãi mãi là một làng vì những cánh đồng lúa phì nhiêu và biển giàu có của nó, và đó là một sự thật cuối cùng.
Mura đem tâm trí quay trở lại với tên hải tặc man rợ trước mặt mình. Ngươi là một con quỷ được đưa đến đây để gieo tai giáng họa cho chúng ta, ông ta nghĩ, và ngươi đem lại cho chúng ta không gì khác ngoài sự rắc rối. Tại sao ngươi không chọn một làng nào khác?
"Ngài chỉ huy muốn Onna?" Ông ta hỏi xăng xái.
Theo gợi ý của ông ta, hội đồng làng đã thu xếp về mặt thể xác cho những người man rợ, vừa như một sự lễ độ vừa là một phương tiện để làm họ bận rộn cho đến khi nhà cầm quyền tới. Những việc tiếp theo làng phải làm sẽ được đền bù xứng đáng hơn số chi phí làng bỏ ra.
"Onna?" Ông ta nhắc lại, tất nhiên cho rằng khi tên hải tặc đã đứng được trên đôi chân thì cũng sẽ hài lòng nằm sấp trên bụng đàn bà để ngọn giáo thiên thần của gã được ấp ủ trước khi ngủ, và dù sao thì mọi sự chuẩn bị cũng đã được làm.
"Không!" Blackthorne chỉ muốn ngủ. Nhưng vì anh cần con người này bên cạnh mình, nên cố gượng cười, chỉ cây thánh giá:
"Ông theo đạo Thiên Chúa?"
Mura gật đầu.
"Thiên Chúa..."
"Tôi là một người theo đạo Thiên Chúa..."
"Cha nói không phải. Không phải Thiên Chúa."
"Tôi là người theo đạo Thiên Chúa. Không phải tín đồ công giáo. Nhưng tôi vẫn là người theo đạo Thiên Chúa..." Nhưng Mura không thể hiểu được, mà Blackthorne dù cố gắng đến mấy cũng không có cách gì giải thích nổi.
"Muốn Onna?"
"Cái ông Dimio - bao giờ tới?"
"Dimio? Không hiểu."
"Dimio - à, tôi định nói là Daimyo."
"A, Daimyo. Hai, Daimyo..." Mura nhún vai.
"Daimyo khi nào tới. Ngủ đi. Sạch sẽ đã. Mời..."
"Cái gì?"
"Sạch sẽ. Tắm. Mời."
"Tôi không hiểu..."
Mura lại gần, mũi chun lại ghê tởm.
"Mùi. Kinh. Như tất cả người Portugal. Tắm. Đây nhà sạch..."
"Tôi sẽ tắm khi nào tôi muốn và tôi không có mùi!" Blackthorne giận dữ." Ai cũng biết tắm là nguy hiểm. Ông muốn tôi đi ỉa chảy à? Ông tưởng tôi ngu lắm sao? Ông cút mẹ ông ra khỏi đây đi và để yên cho tôi ngủ!"
"Tắm!" Mura ra lệnh, ông ta choáng người vì cơn giận đùng đùng của gã man rợ này - đỉnh cao của sự bất lịch sự. Và không phải chỉ là cái gã man rợ này có mùi đúng như vậy, mà là gã không tắm thật sự đã ba ngày theo quan niệm của ông, và cô gái làng chơi cũng sẽ hoàn toàn có lý nếu cô ta từ chối chăn gối với gã dù gã có nhiều tiền đến mấy. Những cái tên ngoại quốc ghê tởm này... ông ta nghĩ. Ngạc nhiên thật. Những thói quen của họ bẩn thỉu quá đi! Nhưng không sao. Tôi chịu trách nhiệm với anh. Anh cần phải được dạy cách cư xử. Anh sẽ phải tắm như một con người và mẹ tôi sẽ biết được điều bà muốn biết.
"Tắm!"
"Cút đi không tao đập chết bây giờ!" Blackthorne nổi xung lên và chỉ cho ông ta đi.
Yên lặng một lúc, ba người Nhật Bản khác xuất hiện cùng với ba người phụ nữ. Mura giải thích ngắn gọn đầu đuôi câu chuyện rồi nói một cách quyết định với Blackthorne:
"Tắm. Mời..."
Mura một mình bước vào trong phòng. Blackthorne vung cánh tay, không muốn làm cho ông ta đau mà chỉ để đẩy ông ta đi thôi. Đột nhiên, Blackthorne kêu rống lên đau đớn. Mura đã dùng gan bàn tay chặt khuỷu tay của anh và bây giờ cánh tay Blackthorne thõng xuống, tê liệt. Nổi khùng lên, anh lao vào Mura. Nhưng căn phòng quay lộn, anh nằm sấp mặt xuống, một sự đau đớn khủng khiếp làm tê liệt phía sau lưng khiến anh không thể nhúc nhích." Chúa tôi.
Anh cố gắng đứng lên nhưng chân nhủn ra. Sau đó Mura bình tĩnh đưa ngón tay nhỏ nhưng rắn như sắt điểm vào một huyệt ở cổ Blackthorne. Đau mờ mắt.
"Lạy Chúa lòng lành..."
"Tắm. Mời."
"Vâng, vâng", Blackthorne há miệng vì đau đớn, ngạc nhiên vì đã quá dễ dàng khuất phục con người nhỏ xíu như vậy và mình lại nằm tênh hênh như một đứa trẻ, sẵn sàng đợi bị cắt cổ.
Nhiều năm trước đây, Mura đã học Judo và Karate cũng như cách đánh kiếm, múa giáo. Khi đó ông ta còn là một chiến binh và chiến đấu cho Nakamura, vị tướng nông dân Taiko, một thời gian rất lâu trước khi Taiko trở thành Taiko - khi những người nông dân có thể trở thành Samurai và Samurai có thể trở thành nông dân hoặc những thợ thủ công hoặc thậm chí những thương nhân thấp kém lại là chiến binh. Lạ thật, Mura lơ đãng suy nghĩ. Hầu như điều đầu tiên Taiko làm khi ông nắm quyền uy tuyệt đối là ra lệnh cho nông dân thôi không làm lính nữa và lập tức từ bỏ tất cả vũ khí. Taiko đã cấm không bao giờ cho họ dũng vũ khí và lập nên một hệ thống đẳng cấp bất di bất dịch ngày nay, chi phối mọi người trong toàn đế quốc: Samurai trên hết, dưới là nông dân, sau là thợ thủ công, rồi đến thương nhân, tiếp theo là nghệ sĩ, những kẻ bị ruồng bỏ và trộm cướp, và tận cùng của giai tầng là eta, những hạng không phải con người, những người làm nghề có liên quan đến người chết, những người thợ thuộc da thú vật chết, cũng là những đao phủ, những kẻ đâm thuê chém mướn. Tất nhiên, bất kể một kẻ man rợ nào cũng đều ở dưới thang bậc này.
"Thưa ông chỉ huy, xin thứ lỗi cho tôi", Mura nói, cúi thấp, xấu hổ vì sự mất thể diện của anh chàng man rợ này khi anh ta nằm rên rỉ như đứa trẻ còn đang bú mẹ. Phải, mình rất lấy làm tiếc, ông ta suy nghĩ, nhưng phải làm như vậy. Anh khiêu khích tôi, bất chấp mọi lẽ phải. Anh la hét như một thằng khùng làm mẹ tôi hốt hoảng, phá sự yên tĩnh của gia đình tôi, làm hỗn loạn những người đầy tớ và vợ tôi đã phải thay một cánh cửa gỗ. Tôi không thể cho phép hành vi thiếu lễ độ của anh mà không có sự phản đối. Không cho phép anh chống lại ý muốn của tôi trong chính ngôi nhà của tôi. Cái này quả thật vì lợi ích của anh. Và nữa, nó cũng chẳng có gì xấu cả bởi vì bọn rợ các anh cũng chẳng có thể diện đâu để mà mất. Chỉ trừ các vị thầy tu - họ khác. Mùi của họ vẫn ghê lắm, nhưng đó là dầu xức của Đức Chúa Cha, vì thế họ có thể diện lớn. Nhưng anh - anh là một thằng nói dối cũng như một tên hải tặc. Không danh dự. Đáng ngạc nhiên thay! Tự xưng là một người theo đạo Thiên Chúa! Bất hạnh thay, cái đó cũng chẳng giúp ích gì cho anh. Daimyo của chúng tôi ghét Niềm Tin Chân Chính và lũ rợ. Ngài bỏ qua cho họ chỉ bởi ngài phải làm như thế. Nhưng anh không phải là người Portugal. Cũng không phải là người có đạo, vì thế không được pháp luật che chở, đúng không? Vì vậy, dù anh có là một kẻ đã chết,- hay ít nhất cũng là một kẻ tàn tật,- nhiệm vụ của tôi là phải để anh đi gặp số mệnh của anh được sạch sẽ. Tắm rất tốt!
Ông ta giúp những người khác khiêng Blackthorne Vẫn còn mê choáng qua nhà, ra ngoài vườn, dọc theo con đường đi có mái che mà ông ta rất lấy làm tự hào, vào trong nhà tắm. Những người phụ nữ theo sau.
Việc này sẽ trở thành một trong những điều trọng đại trong đời ông ta. Lúc ấy, ông ta đã biết mình sẽ kể đi kể lại chuyện này với bạn bè trên những thùng sake nóng, cho các ông già bà cả, những người đánh cá, những người làng, cho con cái ông ta, những người mà lúc đầu cũng sẽ không tin ông ta Nhưng rồi họ sẽ kể cho con cháu của họ và tên của Mura, người đánh cá, sẽ sống mãi trong làng Anjiro của tỉnh Izu ở bờ biển đông nam đảo Honshu. Tất cả bởi vì ông ta, Mura, người đánh cá, đã có cái may mắn làm trưởng làng trong năm đầu tiên sau khi Taiko chết, và do đó tạm thời chịu trách nhiệm đối với kẻ đứng đầu bọn rợ lạ lùng từ biển Đông tới.
Bạn cần đăng nhập để bình luận