Shogun Tướng Quân
Chương 2
Daimyo Kasigi Yabu, chúa của miền Izu, muốn biết anh là ai, từ đâu tới, làm sao tới được đây, anh đã phạm những hành động cướp bóc gì?" Cha Sebastio nói.
"Tôi đã nói với ông, chúng tôi không phải là hải tặc."
Buổi sáng hôm ấy trời trong và ấm áp. Blackthorne quỳ trước bệ đài của quảng trường làng, đầu vẫn còn đau vì cú đánh. Phải bình tĩnh và để cho đầu óc làm việc. Anh sắp bị xét xử để sống còn. Anh là người phát ngôn, chỉ có thế thôi. Sự thù địch của gã cha cố, và là người phiên dịch duy nhất có thể có, và anh sẽ không có cách nào biết được gã nói gì, trừ một điều chắc chắn gã sẽ không giúp đỡ gì anh đâu...
"Phải khôn ngoan, cậu cả", anh như nghe tiếng nói của Alban Caradoc. Khi bão tố cuồng nộ nhất và khi biển trở nên hãi hùng nhất, phải dùng trí khôn đặc biệt của mình. Điều đó sẽ giúp anh sống và con tàu của anh sống nếu anh là hoa tiêu. Hãy tập trung trí khôn và lấy chất nước ép ra từng ngày, cho dù khó khăn...
Chất nước ép hôm nay là mật đắng. Blackthorne nghĩ chua cay. Tại sao mình lại nghe tiếng nói của Anban rõ như thế nhỉ?
"Trước tiên, anh hãy nói với Daimyo là chúng ta đang có chiến tranh, chúng ta là kẻ thù của nhau", anh nói.
"Nói với ông ấy là England và Netherland đang có chiến tranh với Spain và Portugal..."
"Tôi nhắc anh một lần nữa là hãy nói đơn giản và đừng bóp méo sự kiện. Netherland hay Holland, Ailen hay các tỉnh Liên Hiệp, tất cả cái gì lũ phản loạn Holland các anh gọi nó, chỉ là một tỉnh nhỏ bé, nổi loạn của đế quốc Spain. Anh là người đứng đầu bọn phản loạn đang nổi loạn chống lại nhà vua hợp pháp của họ."
"Nước Anh đang có chiến tranh và Netherland đang bị lừa." Blackthorne không nói tiếp vì gã thầy tu không còn nghe mà đang dịch.
Daimyo đang ở trên bục đài, ông ta lùn, người vuông chằn chặn. Ông ta quỳ thoải mái, gót đặt phía sau, hai bên là bốn tỳ tướng, trong đó có Kasigi Omi, cháu và là chư hầu của ông. Tất cả đều mặc kimono lụa, áo khoác có trang trí, thắt lưng rộng bản thít lại và những bắp vai khổng lồ, cứng nhắc. Và tất nhiên là những thanh kiếm.
Mura quỳ dưới quảng trường. Ông ta là người làng duy nhất có mặt. Những người đứng nhìn duy nhất khác là năm mươi Samurai đến cùng Daimyo. Họ ngồi thành hàng yên lặng, trật tự. Đám người lộn xộn của thủy thủ đoàn ở phía sau Blackthorne. Cũng giống anh, tất cả đều quỳ và có lính gác ở bên. Họ phải khiêng hạm trưởng đến mặc dù ông đang bị ốm nặng. Ông được phép nằm dưới đất, vẫn trong tình trạng bán hôn mê. Blackthorne và đồng đội của anh, tất cả cúi chào khi họ tới trước mặt Daimyo, nhưng như vậy chưa đủ. Các Samurai ấn tất cả quỳ xuống, dúi đầu họ xuống đất theo cung cách của những nông dân. Anh đã cố gắng kháng cự, quát lên với thầy tu nhờ gã giải thích rằng phong tục của họ không như vậy, rằng anh là người chỉ huy và là sứ giả của đất nước mình nên phải được đối đãi tương xứng. Nhưng một cán giáo đã quật anh lặn xuống đất. Theo bản năng, đồng đội của anh tụm lại chuẩn bị tấn công, nhưng anh quát họ dừng lại và quỳ xuống. May mà họ tuân lệnh. Vị Daimyo nói một điều gì bằng một giọng trong cuống họng, thầy tu dịch, cảnh cáo anh phải nói sự thật, và nói mau. Blackthorne yêu cầu một cái ghế, nhưng gã thầy tu nói người Nhật không dùng ghế và không có một cái ghế nào ở Nhật Bản cả.
Blackthorne tập trung chú ý vào gã thầy tu khi gã nói với Daimyo, cố tìm một đầu mối, một con đường qua mạch đá này.
Có một sự kiêu căng và tàn ác trên nét mặt lão Daimyo, anh nghĩ. Mình chắc hắn ta là một thằng chó đẻ thật sự. Tiếng Nhật của gã thầy tu này không được lưu loát. À, thấy không? Bực bội và mất kiên nhẫn. Có phải lão Daimyo này hỏi một chữ khác, một chữ rõ hơn không? Mình nghĩ thế. Tại sao cái gã thầy tu này lại mặc áo dài màu da cam? Cái lão Daimyo có phải là người theo đạo Cơ đốc không? Coi này, cái gã Jesuit này rất cung kính và toát mồ hôi. Mình chắc lão Daimyo không phải người đi đạo. Phải chính xác mới được. Có lẽ lão không phải là người đi đạo. Thế nào chăng nữa cũng chẳng thể mong sự thương xót ở lão ta. Mình có thể sử dụng cái thằng chó đẻ xấu xa này thế nào đây? Làm thế nào để nói thẳng với lão. Mình sẽ tác động lão thầy tu này thế nào? Làm thế nào để gã bị mất tín nhiệm? Mồi là gì? Nào, hãy suy nghĩ! Anh chẳng đã biết đủ về bọn Jesuit đó ư?
"Daimyo bảo hãy nói nhanh lên và trả lời những câu hỏi của ông ấy."
"Vâng. Tất nhiên, tôi xin lỗi. Tôi tên là John Blackthorne. Tôi là người Anh, thiếu tá hoa tiêu của hạm đội Netherland. Cảng xuất phát của chúng tôi là Amsterdam."
"Hạm đội? Hạm đội nào? Anh nói láo. Chẳng có hạm đội nào hết. Tại sao một hoa tiêu người Anh lại ở trên một tàu Holland?"
"Cứ thong thả. Trước hết làm ơn dịch những điều tôi vừa nói..."
"Tại sao anh lại là hoa tiêu trên một chiến thuyền Holland? Nhanh lên!"
Blackthorne quyết định đánh một canh bạc. Giọng anh đột nhiên đanh lại, vang lên trong cái ấm áp của buổi sáng.
"Khỉ thật! Dịch những điều tôi nói đi đã, tên Spain kia! Nhanh lên!"
Gã thầy tu đỏ mặt.
"Tôi là người Portugal. Tôi đã nói với anh rồi. Trả lời câu hỏi đi..."
"Tôi ở đây để nổi chuyện với vị Daimyo kia, không phải với anh. Dịch những điều tôi nói, đồ rác rưởi vô thừa nhận kia!" Blackthorne thấy gã thầy tu đỏ mặt lên nữa và cảm thấy điều đó không thoát được sự chú ý của lão Daimyo. Phải thận trọng, anh tự cảnh giác mình. Cái thằng chó đẻ da vàng này sẽ nghiền mày ra từng mảnh, nhanh hơn một đàn cá mập nếu mày không chế ngự được mình." Nói với ông chúa Daimyo đi!" Blackthorne cố tình chào thật thấp trước bệ và cảm thấy mồ hôi lạnh bắt đầu đọng thành giọt khi anh quyết định hành động như thế.
Cha Sebastio biết sự đào luyện của gã làm gã không tiếp thu nổi những điều sỉ nhục của tên hải tặc và rõ ràng đó là cách làm gã mất tín nhiệm trước vị Daimyo. Nhưng thoạt đầu, nó lại không như thế và gã cảm thấy bối rối. Khi người của Mura tới tòa sứ của gã ở tỉnh bên để đưa tin về con tàu, gã đã do dự. Không thể là tàu Holland hoặc Anh! Gã nghĩ vậy. Trước nay chưa hề có một chiếc tàu của kẻ dị giáo nào ở biển Thái Bình Dương trừ thuyền của tên hải tặc Drake, nhưng chưa bao giờ hắn ta lại ở châu Á. Những con đường là bí mật và đã được canh phòng. Lập tức gã chuẩn bị đi và đã cho một con chim đưa thư mang một bức điện tới thượng cấp của gã ở Osaka. Xin chỉ thị của thượng cấp. Biết mình còn trẻ, hầu như không được thử thách, còn mới lạ đối với Nhật Bản, mới ở đây vỏn vẹn hai năm, chưa được bổ nhiệm, chưa đủ khả năng để đương đầu với tình thế khẩn cấp này, gã đã băng lới Anjiro, hi vọng và cầu nguyện cho tin này là không đúng. Nhưng tàu là tàu Holland và hoa tiêu là người Anh. Tất cả nỗi niềm căm ghét của gã đối với Luther, Calvin, Henry 8 và đứa con gái ác quỷ của lão ta - Elizabeth, đã choán ngợp lấy gã, làm mờ tâm trí của gã.
"Thầy tu, dịch câu tên hải tặc vừa nói", gã nghe tiếng lão Daimyo nói. Ôi, Đức Mẹ, hãy giúp con thực hiện ý nguyện của Người. Hãy giúp con sức mạnh trước mặt lão Daimyo này, hãy cho con khẩu khiếu và hãy cho con chuyển tới lão ta Niềm Tin Chân Chính.
Cha Sebastio thu hết khôn ngoan, bắt đầu nói một cách tự tin hơn.
Blackthorne chăm chú lắng nghe, cố nhặt ra những từ và ý nghĩa của nó. Gã nói.
"Nước Anh",
"Blackthorne" và chỉ vào con tàu buông neo gọn ghẽ ngoài bến cảng.
"Làm sao anh tới đây được?" cha Sebastio nói.
"Bằng đường eo Magellan. Từ đó tới đây một trăm ba mươi sáu ngày. Hãy nói với Daimyo."
"Anh nói láo. Đường eo Magellan là bí mật. Anh tới đây qua châu Phi và Ấn Độ. Cuối cùng, nhất định anh phải nói sự thật. Ở đây người ta tra tấn đấy."
"Eo là bí mật. Một người Portugal bán cho chúng tôi một hải trình. Một người đồng bào của ông đã bán các ông lấy đồng tiền vàng phản bội của Giuđa. Tất cả các anh đều là phân, là cứt! Bây giờ, tất cả chiến thuyền của England và Holland đều biết đường qua Thái Bình Dương. Có một hạm đội, hai mươi chiến thuyền lớn của England, sáu mươi chiến thuyền có đại bác, đang tấn công Manila ngay lúc này. Đế quốc của ngươi sẽ chấm dứt..."
"Anh nói láo!"
Phải, Blackthorne nghĩ, không cách nào chứng minh được điều dối trá đó, trừ phi tới Manila." Hạm đội đó sẽ cầy tung những lằn đường biển của các ông và đập nát những thuộc địa của các ông. Một hạm đội Holland nữa cũng sẽ tới đây vào bất kể tuần nào. Con lợn Bồ - Spain sẽ quay về chuồng lợn của nó và ăn phân tại cái ổ của nó?" Anh quay đi và cúi thật thấp chào lão Daimyo.
"Chúa nguyền rủa mày cùng cái mồm bẩn thỉu của mày!"
"Ano mono wa nami o moshité oru?" Lão Daimyo bật lên một cách nôn nóng.
Gã thầy tu nói nhanh hơn, nhấn mạnh hơn.
"Magellan" và.
"Manila" nhưng Blackthorne nghĩ rang lão Daimyo và các tỳ tướng của lão dường như không hiểu gì lắm.
Yabu đã mệt mỏi vì cuộc xét xử này. Lão. nhìn ra ngoài bến cảng, phía con tàu đã ám ảnh lão từ khi nhận được tin mật của Omi. Lão lại tự hỏi, không biết có phải đây là món quà của các vị thần linh mà lão từng ao ước hay không?
"Cháu đã khám xét hàng hóa chưa, Omi-san?." Sáng nay, khi vừa tới nơi, người còn mệt mỗi lấm lem bùn đất, lão đã hỏi.
"Thưa Chúa công, chưa. Cháu nghĩ tốt nhất là niêm phong tàu lại, chờ ngài tới. Nhưng những khoang tàu đầy ắp những hòm đồ và những kiện hàng. Cháu hi vọng đã hành động đúng. Đây là tất cả chìa khóa của họ. Cháu đã tịch thu."
"Tốt." Yabu tới từ Yedo, thủ phủ của Toranaga cách đây hơn một trăm dặm. Vội vã, lén lút, hết sức nguy hiểm cho bản thân và sống chết phải trở lại cũng nhanh như vậy. Cuộc hành trình đã mất gần hai ngày trên những tuyến đường xấu và những con suối đầy nước, một phần đi ngựa, một phần đi cáng.
"Ta sẽ ra tàu ngay."
"Thưa Chúa công, xin chúa công hãy xem những người ngoại quốc đã..." Omi nói với một tiếng cười,
"Không thể tin được. Hầu hết đều mắt xanh giống như mèo Xiêm và tóc vàng. Nhưng tin tức hay nhất là họ là hải tặc..."
Omi đã kể cho lão nghe về gã thầy tu. Những điều gã kể về lũ hải tặc và những điều tên hải tặc nói cùng những việc đã xảy ra làm nỗi kích thích của lão tăng lên gấpba. Yabu đã thắng được sự nôn nóng của mình, định lên tàu và bóc niêm phong. Thay vào đó, lão đã tắm thay quần áo và ra lệnh đem lũ rợ đến trước mặt mình.
"Anh thầy tu kia", lão nói giọng đanh lại, làm như không thể hiểu nổi cách phát âm rất tồi của gã thầy tu.
"Tại sao hắn ta lại cáu giận với anh như thế?.."
"Hắn ta xấu. Hải tặc. Hắn thờ quỷ."
Yabu nghiêng người về phía Omi ở phía tay trái mình.
"Cháu có hiểu gã nói gì không? Nó nói láo phải không? Cháu nghĩ thế nào?"
"Thưa chúa công, con không biết. Ai mà biết lũ rợ tin cái gì. Theo con, gã thầy tu cho rằng tên hải tặc là kẻ thờ quỷ. Tất nhiên, tất cả những cái đó là phi lý."
Yabu quay lại gã thầy tu, thấy ghét cái gã này. Lão ao ước có thể đóng đinh câu rút gã hôm nay, triệt tiêu công giáo khỏi địa hạt của mình. Nhưng không thể được. Mặc dù lão và tất cả các Daimyo khác có toàn quyền trong địa hạt của mình, họ vẫn phụ thuộc vào uy quyền tối cao của Hội đồng nhiếp chính, hội đồng tướng lĩnh mà Taiko đã chính thức ủy quyền trong thời gian con ông còn thơ dại, cũng phải lệ thuộc vào huấn lệnh mà Taiko đã ban hành từ nhiều năm trước đây vẫn còn hiệu lực. Một trong những điều được ban hành từ nhiều năm trước đây có liên quan đến rợ Portugal. Lệnh ban rằng họ là những người được che chở và, trong giới hạn của nó, tôn giáo của họ phải được khoan nhượng, các thầy tu được phép, trong giới hạn, cải đạo và đổi tín ngưỡng.
"Anh thầy tu kia? Tên hải tặc còn nói gì nữa? Hắn ta nói gì với anh? Nhanh lên! Anh mất lưỡi rồi sao?"
"Hải tặc nói những điều xấu xa. Xấu xa. Nói có nhiều... chèo thuyền chiến của cướp - nhiều..."
"Anh nói sao, chèo thuyền chiến..."
"Xin lỗi Chúa công, tôi không hiểu..."
"Chèo thuyền chiến, không có nghĩa gì cả, hả?"
"À! Hải tặc nói những tàu chiến khác ở Manila, ở Philippines."
"Omi-san, cháu có hiểu anh ta nói gì không?"
"Thưa Chúa công, không. Cách nói của hắn khủng khiếp líu ríu cả lại. Không biết có phải hắn nói có nhiều tàu khác của hải tặc ở phía Đông Nhật Bản không."
"Anh thầy tu kia? Có phải có tàu khác của hải tặc ở ngoài khơi của chúng ta không? Phía Đông? Hả?"
"Thưa Chúa công, vâng. Nhưng tôi nghĩ anh ta nói láo. Anh ta nói ở Manila."
"Tôi không hiểu anh. Manila ở đâu?"
"Phía Đông. Đi nhiều ngày..."
"Nếu tàu hải tặc đến đây, chúng ta sẽ đón tiếp họ nồng nhiệt, bất kể Manila ở đâu."
"Xin tha lỗi, tôi không hiểu..."
"Không sao", Yabu nói, sự kiên nhẫn của, lão đã hết. Lão quyết định những người lạ này phải chết và khoái cảnh tượng ấy. Rõ ràng những người này không nằm trong lệnh của Taiko, ngoại trừ rợ Portugal, mà dù sao thì họ cũng là hải tặc. Xưa nay lão vẫn ghét lũ rợ, mùi hôi của họ, sự bẩn thỉu và thối quen ăn thịt tởm lợm của họ, cái tôn giáo ngu ngốc, sự kiêu căng và những cung cách đáng ghét của họ. Hơn thế, lão lấy làm hổ thẹn, như tất cả những Daimyo khác, bởi cái thòng lọng của họ trên mảnh đất này. Một tình trạng chiến tranh đã tồn tại giữa Trung Quốc và Nhật Bản trong nhiều thế kỷ. Trung Quốc không cho phép buôn bán. Hàng lụa Trung Quốc là thứ để giúp cho mùa hè dài dằng dặc, nóng bức và ẩm thấp ở Nhật Bản có thể chịu nổi. Hàng bao nhiêu thế hệ nay, chỉ có một số lượng nhỏ xíu hàng lụa nhập trái phép lọt qua được biên giới và chỉ có thể kiếm được với giá cắt cổ của Nhật Bản. Thế rồi hơn sáu mươi năm về trước, lũ rợ đầu tiên đã tới. Thiên Hoàng Trung Hoa ở Bắc Kinh cho họ một căn cứ thường trực nhỏ xíu tại Macao, ở miền Nam Trung Quốc, và đồng ý đổi lụa lấy bạc. Nhật Bản có nhiều bạc. Chẳng bao lâu việc buôn bán nở rộ. Cả hai nước đều thịnh vượng. Những người trung gian, những người Portugal trở nên giàu có và những thầy tu của họ - chủ yếu là những Jesuit - chẳng bao lâu đã nắm quyền quyết định công cuộc thương mại. Chỉ có các thầy tu đã học được tiếng Trung Quốc và tiếng Nhật, do đó có thể làm người môi giới và phiên dịch. Thương mại nở rộ thì các thầy tu càng trở nên cần thiết. Giờ đây công việc buôn bán hàng năm hết sức lớn và ảnh hưởng tới đời sống của mỗi Samurai. Bởi vậy các thầy tu phải được khoan thứ và việc truyền đạo của họ cũng phải được tha thứ, nếu không thì bọn rợ sẽ cuốn gói đi và việc buôn bán sẽ dừng lại.
Hiện đã có số Daimyo công giáo rất quan trọng và hàng trăm ngàn người cải đạo, hầu hết là ở Kyushu, bán đảo phía Nam gần Trung Quốc nhất và gồm cả cảng Nagasaki của Portugal. Tuy nhiên, Yabu nghĩ, chúng ta có thể tha thứ cho bọn thầy tu và bọn Portugal, nhưng không phải bọn rợ này, những tên mới này, những tên có mắt xanh tóc vàng không thể nào tin nổi. Sự phấn khích làm lão ngột ngạt. Giờ đây, lão có thể thoả mãn tính tò mò xem một tên rợ sẽ chết như thế nào khi bị tra tấn. Và lão có mười một người, mười một cách thí nghiệm khác nhau. Lão không bao giờ tự ái, tại sao nỗi thống khổ của người khác lại làm cho lão sung sướng. Lão chỉ biết nó làm lão sung sướng và vì thế, nó là một cái gì cần được tìm kiếm và tận hưởng.
Yabu nói:
"Con tàu này là ngoại quốc, không phải Portugal và nó là hải tặc nên sẽ bị tịch thu cùng mọi thứ trong đó. Tất cả bọn hải tặc sẽ bị kết..." Mồm lão há hốc ra khi thấy tên cầm đầu hải tặc nhảy xổ vào gã thầy tu và giật cây thánh giá gỗ khỏi thắt lưng gã, bẻ nó ra từng mảnh, quăng chúng xuống đất rồi hét lên một tiếng gì đó rất to. Tên hải tặc lập tức quỳ xuống cúi chào rất thấp khi những người gác xông đến tay giơ cao kiếm.
"Dừng lại! Đừng giết hắn..." Yabu kinh ngạc vì có ké dám hành động láo xược, vô lễ như vậy trước mặt mình." Bọn rợ này không thể nào tướng tượng nổi..."
"Vâng", Omi nói, trí óc anh ta tràn ngập những câu hỏi, không hiểu hành động ấy có nghĩa gì.
Gã thầy tu vẫn quỳ, mắt nhìn chăm chăm vào những mảnh thánh giá. Họ nhìn tay gã run run nhặt những mảnh gỗ bị xúc phạm. Gã nói điều gì đó với tên hải tặc, giọng nhỏ nhẹ gần như êm ái. Đôi mắt tên nhắm lại, những ngón tay chụm và đôi môi bắt đầu chuyển động chậm chạp. Tên trùm hải tặc nhìn họ bất động, đôi mắt màu xanh xám không chớp, như mắt mèo trước thủy thủ đoàn của mình.
Yabu nói:
"Omi-san, trước tiên chú muốn lên tàu. Sau đó chúng ta sẽ bắt đầu..." Giọng lão đặc lại khi ngẫm nghĩ tới cái khoái lạc lão đã hứa dành cho mình.
"Chú muốn bắt đầu bằng cái tên tóc đỏ ở cuối hàng kia kìa, cái gã nhỏ con ấy..."
Omi ghé lại gần hơn và hạ thấp giọng nói bị kích động của mình:
"Xin Chúa công tha lỗi, những điều này trước đây chưa hề có. Kể từ khi rợ Portugal tới đây, cây thánh giá có phải là biểu hiện thiêng liêng của họ không? Có phải họ luôn luôn kính trọng các vị thầy tu của mình không? Có phải họ luôn quỳ trước mặt thầy tu một cách công khai? Có phải các thầy tu có quyền tuyệt đối với họ không?."
"Đi thẳng vào vấn đề..."
"Thưa Chúa công, tất cả chúng ta đều ghét người Portugal. Chỉ trừ những người theo đạo Thiên Chúa trong chúng ta. Có lẽ bọn rợ này có giá trị đối với Chúa công khi còn sống hơn là khi họ chết..."
"Sao vậy?"
"Bởi vì họ là độc nhất. Họ chống Thiên Chúa! Có lẽ một người khôn ngoan có thể tận dụng lòng căm thù của họ - hoặc sự vô tôn giáo của họ - cho mục đích của chúng ta. Họ là tài sản của Chúa công, Chúa công muốn làm gì thì làm. Phải không ạ?"
Phải. Và ta muốn chúng bị tra tấn, Yabu nghĩ. Phải, nhưng ta có thể hưởng điều đó bất cứ lúc nào. Hãy nghe Omi. Nó là một cố vấn tốt. Nhưng bây giờ có nên tin cậy nó không? Không biết nó có lý do bí mật nào để nói điều này không? Thử suy nghĩ xem.
"Ikaoa Jikkiu là người đi đạo", lão nghe tiếng cháu gọi tên kẻ thù đáng căm ghét của mình - một trong những họ hàng và đồng minh của Ishido - đóng tại biên giới phía Tây của lão.
"Cái tên cố đạo bẩn thỉu này đã chẳng có nhà ở đó ư? Cớ lẽ bọn rợ này có thể cho Chúa công chìa khóa để mở toàn bộ tỉnh Ikaoa. Có lẽ cả Ishido. Có lẽ cả chính Toranaga nữa", Omi nói thêm một cách tế nhị.
Yabu quan sát nét mặt của Omi, cố gắng tìm ra điều gì phía sau đó. Rồi lão ngó ra con tàu. Bây giờ, không còn nghi ngờ gì nữa, các vị thần linh đã đưa nó lại cho lão Phải. Nhưng đó là một món quà hay là một tai ương? Lão gạt sự khoái lạc của mình sang một bên, nhường nó cho sự an toàn của bộ tộc. mình.. Ta đồng ý, nhưng trước hết hãy khuất phục bọn hải tặc này. Dạy cho chúng nề nếp. Đặc biệt hắn!
"Cái chết ngọt ngào của Chúa!" Vinck lẩm bẩm.
"Chúng ta nên cầu nguyện", Van Nekk nói.
"Chúng tôi vừa cầu nguyện một bài rồi..."
"Có lẽ chúng ta nên cầu nguyện thêm một bài nữa. Lạy Chúa trên trời, có nửa lít rượu thì hay quá."
Họ bị nhốt vào một cái hầm sâu, một trong rất nhiều những cái hầm vốn dùng để chứa cá khô. Các Samurai đã lùa họ qua quảng trường, xuống một cái thang và hiện họ bị nhốt ở dưới đất. Hầm này dài năm bước, rộng năm bước, sâu bốn bước, nền và tường là đất. Trần làm bằng những tấm ván, trên là một lớp đất và một nắp hầm duy nhất.
"Tránh chân tao ra, đồ khỉ bị Chúa nguyền rủa..."
"Câm cái mõm, đồ gắp cứt!" Pieterzoon nói hồn hậu." Hây! Vinck, nhích ra một tí, cái đồ lắm mồm, mày có nhiều chỗ hơn tất cả mọi người! Lạy Chúa, giá mà có được một cốc bia lạnh! Nhích lên."
"Không thể nhích được, Pieterzoon. Ở đây chúng tớ chật hơn cả lỗ đít của gái đồng trinh rồi."
"Chính hạm trưởng. Ông ta chiếm hết cả chỗ. Đẩy cho ông ta một cái. Đánh thức dậy!" Maetsukker nói.
"Hả? Có chuyện gì thế? Để cho tao yên. Có chuyện gì vậy? Tao ốm. Tao phải nằm. Chúng mình ở đâu thế này?"
"Để mặc ông ấy. Ông ấy ốm. Nào, Maetsukker, dậy đi, lạy Chúa..."
Vinck giận dữ lôi Maetsukker dậy, đẩy anh ta vào tường. Không đủ chỗ để tất cả đều nằm hoặc thậm chí để cùng ngồi cho thoải mái.
Hạm trưởng Paulus Spillbergen nằm duỗi dài ngay dưới cửa hầm, nơi thoáng gió nhất, đầu gối vào chiếc áo khoác gấp lại. Blackthorne ngồi tựa vào một góc, mắt đăm đăm nhìn lên nấp hầm. Cả đội thuyền đã để mặc anh, cố hết sức tránh anh một cách không thoải mái. Kinh nghiệm đã cho họ hiểu tính tình của anh, cái hung bạo lầm lì luôn ẩn trong cái bề ngoài lặng lẽ.
Maetsukker nổi xung lên, đấm vào háng Vinck.
"Để cho tao yên, không tao sẽ giết mày đó, đồ chó đẻ..."
Vinck lao vào anh ta, nhưng Blackthorne nắm lấy cả hai và giúi đầu họ vào tường.
"Bọn mày câm cái mồm", anh nói nhẹ nhàng. Họ đã làm như được ra lệnh.
"Chúng ta sẽ chia lượt nhau. Một người ngủ, một người ngồi, một người đứng. Spillbergen sẽ nằm cho đến khi lại sức. Cái góc kia là nhà xí..." Anh chia họ ra. Khi đã sắp xếp lại thì dễ chịu hơn một chút.
Chúng ta sẽ phải vượt ra khỏi chỗ này trước khi kiệt sức. Blackthorne nghĩ vậy. Khi nào chúng thả thang xuống để cho thức ăn và nước uống? Đêm nay hay đêm mai? Tại sao chúng lại đẩy chúng ta xuống đây? Chúng ta có phải là mối đe dọa đâu? Chúng ta có thể giúp lão Daimyo đó. Không biết lão có hiểu không? Cách duy nhất của mình là chỉ cho lão thấy gã. thầy tu là kẻ thù thật sự của chúng ta. Nhưng lão có hiểu không? Gã thầy tu thì hiểu.
"Có lẽ Chúa có thể tha thứ cho sự báng bổ của ngươi, nhưng ta thì không", cha Sebastio khẽ nói.
"Ta sẽ không bao giờ nghỉ ngơi cho đến khi ngươi và sự độc hại của ngươi bị tiêu diệt."
Mồ hôi ròng ròng chảy xuống má và cằm. Anh gạt đi một cách lơ đãng, tai ngóng lên y như khi anh còn ở trên tàu và đang ngủ, không cảnh giác nữa, buông thả, vừa đủ để nghe được nguy hiểm trước khi nó xảy đến.
Chúng ta sẽ phải thoát khỏi chỗ này và lấy lại tàu. Không hiểu Felicity lúc này đang làm gì? Và lũ trẻ nữa. Xem nào, Tudor bây giờ lên bảy rồi và Lisbeth thì... Chúng ta đã đi một năm mười một tháng, sáu ngày. Từ Chatham tới đó, sau đó thêm mười một ngày nữa. Đó chính là tuổi của nó. Nếu tất cả mọi chuyện đều tốt đẹp. Mọi việc cần được tốt đẹp. Felicity sẽ nấu nướng, sẽ trông nom, sẽ lau dọn, sẽ trò chuyện và lũ trẻ sẽ lớn lên khỏe mạnh và không hề biết sợ hãi giống như mẹ chúng. Tốt đẹp biết mấy nếu như lại được về nhà, đi trên bờ biển, trong rừng, trong bóng râm mát, trong cái đẹp, đó là England.
- Giải thích, Chatham: một thành phố ở Đông Nam England, ở miền Bắc Kent trên sông Medway: Xưởng sửa chữa và đóng tàu của Hải quân Hoàng gia. Hết giải thích.
Đã bao năm anh rèn luyện mình để nghĩ về họ như về những nhân vật trong một vở kịch, những người mình yêu, vì họ mà mình đổ máu. Một vở kịch không có tận cùng. Nếu không, nỗi đau chia cách sẽ là quá lớn. Anh hầu như có thể đếm được những ngày anh ở nhà trong mười một năm lấy vợ. Quá ít, anh nghĩ, quá ít.
"Đối với một người phụ nữ, cuộc sống như thế vất vả quá, Felicity", trước đó anh đã từng nói, và nàng đáp:
"Cuộc sống nào cũng vất vả đối với người phụ nữ." Lúc ấy nàng mười bảy tuổi, cao, tóc dài, mượt.
Lỗ tai anh báo cho anh phải canh chừng.
Mấy người đang ngồi, tựa vào tường hay cố gắng ngủ. Vinck và Pieterzoon, hai người bạn thân đang nói chuyện một cách lặng lẽ. Van Nekk ngó chăm chăm vào khoảng không cùng với những người khác. Spillbergen mơ mơ màng màng. Blackthorne nghĩ, con người này mạnh mẽ hơn là người ta tưởng.
Một sự yên lặng đột ngột khi họ nghe thấy tiếng bước chân trên đầu. Bước chân dừng. Những giọng nói nén lại trong một thứ tiếng nghe gai gai và lạ. Blackthorne nhận ra, hình như tiếng nói của Samurai Omi-san? Phải, đó là tên anh ta - nhưng anh không dám chắc. Trong giây lát, những giọng nói ngừng lại và bước chân bỏ đi.
"Hoa tiêu, anh có nghĩ là họ cho chúng ta ăn không?" Sonk hỏi.
"Có."
"Có chút gì uống nhỉ? Bia lạnh, lạy Chúa", Pieterzoon nói.
"Câm mồm", Vinck nói.
"Cậu cũng đủ để làm người ta vã mồ hôi ra đấy."
Blackthorne nhận thấy chiếc áo sơ mi của mình đã ướt sũng. Và mùi hôi thối. Lạy Chúa lòng lành, giá mà tắm được một cái, anh nghĩ và bất giác mỉm cười, nhớ lại.
Hôm ấy Mura và những người khác đã khiêng anh vào trong phòng ấm và đặt anh nằm trên một chiếc ghế đá. Tứ chi anh vẫn còn tê dại và cử động chậm chạp. Ba người đàn bà do một mụ già như phù thủy dẫn đầu, bắt đầu cởi quần áo anh, anh đã cố ngăn họ nhưng mỗi lần cử động, một trong những người đàn ông lại điểm huyệt làm anh mất khả năng kháng cự. Mặc anh hò hét, chửi rủa, họ cứ tiếp tục lột trần truồng anh ra. Anh không xấu hổ vì không có quần áo trước phụ nữ mà vì việc cởi bỏ quần áo bao giờ cũng được làm kín đáo và đó là phong tục. Và anh không thích người khác cởi quần áo của mình, nói gì tới những người bản xứ thiếu văn minh này. Bị lột quần áo trước mặt mọi người như một đứa trẻ không biết bấu víu vào đâu và được kỳ cọ khắp người bằng nước xà bông ấm và thơm trong khi họ trò chuyện và cười còn anh thì nằm ngửa như một đứa trẻ là điều quá sức…
Rồi họ đặt anh nhẹ nhàng vào nước nóng, khói bốc nghi ngút, chẳng mấy chốc anh không sao chịu nổi, họ lại để anh thở lấy hơi trên chiếc ghế dài một lần nữa. Người đàn bà lau khô người cho anh và một ông già mù tới. Blackthorne chưa bao giờ biết tẩm quất là gì. Thoạt đầu anh đã cố kháng cự lại những ngón tay mò mẫm nhưng rồi cái kỳ ảo của chúng đã quyến rũ anh và chẳng mấy chốc, anh rên rỉ như một con mèo khi những ngón tay ấy lần tìm được những đốt xương, khai thông mạch máu, đánh thức sức sống ẩn tàng dưới làn da, dưới bắp thịt của anh.
Rồi anh được đỡ vào giường, người yếu kỳ lạ, nửa như trong mơ và một cô gái đã ở đó. Cô rất kiên nhẫn với anh. Sau khi ngủ, anh lại sức và đã.
"Đi lại" với cô một cách thận trọng.
Anh không hỏi tên cô, sáng hôm sau khi Mura, căng thẳng và rất sợ hãi, đến kéo anh ra khỏi giấc ngủ, cô đã đi rồi.
Blackthorne thở dài. Cuộc sống kỳ diệu thay, anh nghĩ.
Hạm trưởng Spillbergen lại đổ quạu. Maetsukker vỗ đầu rên rỉ, không phải vì đau đớn mà vì sợ hãi. Cậu bé Croocq như kiệt sức. Jan Roper thì nói:
"Có chuyện gì mà mỉm cười vậy, hoa tiêu?"
"Ồ mẹ khỉ..."
"Nói thật tình, hoa tiêu ạ", Van Nekk nói thận trọng, bộc lộ tất cả những điều suy nghĩ.
"Anh thật dở hết sức khi tấn công tên thầy tu trước mặt thằng chó đẻ da vàng xấu xa."
Tất cả đều đồng ý mặc dù sự đồng ý đó được biểu lộ một cách thận trọng.
"Nếu anh không làm điều đó thì chúng ta đã chẳng phải ở cái chốn hỗn độn thối tha này."
Van Nekk không lại gần Blackthorne:
"Anh chỉ việc chui đầu vào bụi khi cái tên chúa chó đẻ đó có mặt, và bọn họ đều lành như những con cừu..."
Anh ta đợi câu trả lời nhưng Blackthorne không nói gì hết, chỉ quay nhìn về phía nấp hầm. Làm như không ai nói năng câu gì vậy. Nỗi bồn chồn của họ lại tăng thêm.
Paulus Spillbergen chống khuỷu tay nhổm dậy một cách khó khăn.
"Cậu nói gì vậy, Baccus?"
Van Nekk tiến lại giải thích chuyện người thầy tu và cây thánh giá, về những điều đã xảy ra và vì sao họ lại ở đây? Hôm nay mắt anh tồi tệ hơn bao giờ hết.
"Đúng, cái đó nguy hiểm, thiếu tá hoa tiêu ạ", Spillbergen nói.
"Đúng, tôi cũng thấy hoàn toàn sai lầm - cho tôi tí nước..."
"Bây giờ cái tên Jesuit sẽ không để cho chúng ta yên đâu..."
"Đáng lý anh phải bẻ gãy cổ nó, hoa tiêu. Đằng nào thì cái tên Jesuit đó cũng không để cho chúng ta yên"- Jan Roper nói." Chúng là lũ chấy rận bẩn thỉu và chúng ta thì ở trong cái ổ hôi thối này như một sự trừng phạt của Chúa..."
"Vô lý, Roper", Spillbergen nói.
"Chúng ta ở đây bởi..."
"Đó là sự trừng phạt Của Chúa! Đáng lẽ chúng ta phải đốt tất cả nhà thờ ở Santa Magdellana - chứ không phải chỉ hai cái. Lẽ ra phải vậy. Những hố phân của quỷ Satan!"
Spillbergen đập con ruồi một cách yếu ớt.
"Bọn lính Spain đã tập hợp lại và chúng ta bị thua sút về quân số, một chọi mười lăm. Cho tôi chút nước! Chúng ta đã cướp bóc thành phố, ấn mũi bọn chúng xuống bùn. Nếu chúng ta ở lại, chúng ta đã bị giết chết, nếu chúng ta không rút..."
"Có hề gì nếu ta đang làm công việc của Chúa? Chúng ta đã làm Người thất vọng..."
"Có lẽ chúng ta ở đây để làm công việc của Chúa", Van Nekk hòa giải, bởi vì' Roper là một con người hay ghen tuông nhưng tốt bụng, một nhà buôn khôn ngoan và là con trai của người cộng sự với ông." Có lẽ chúng ta có thể chỉ cho những người bản xứ ở đây thấy cái sai lầm của bọn thầy tu. Có lẽ chúng ta có thể cải đạo để họ đến với Niềm Tin Chân Chính."
"Đúng lắm", Spillbergen nói. Ông vẫn còn cảm thấy yếu, nhưng sức khỏe của ông đã lần lần trở lại.
"Tôi nghĩ anh nên tham khảo ý kiến Baccus, thiếu tá hoa tiêu. Dù sao, ông ấy cũng là lái buôn chính. Theo tôi nghĩ, ông ấy rất giỏi việc thương lượng với lũ rợ. Cho tí nước. Tôi đã bảo mà!"
"Không có tí nước nào hết, Paulus ạ", nỗi u ám của Van Nekk càng tăng lên." Chúng không cho chúng ta thức ăn hoặc nước gì hết. Thậm chí chúng ta không có cả một cái bô để đi tè nữa..."
"Ờ, hỏi xin một cái bô và một ít nước. Lạy Chúa ở trên trời, tôi khát quá. Hỏi xin một chút nước! Cậu!"
"Tôi?" Vinck hỏi.
"Ừ, cậu."
Vinck nhìn Blackthorne, nhưng Blackthorne chỉ ngó cánh cửa hầm như lạc thần trí, bởi vậy Vinck đứng dưới chỗ hở kêu to:
"Hây! Các anh trên ấy ơi! Cho chúng tớ ít ngụm nước Chúa nguyền rủa! Chúng tớ cần thức ăn và nước?"
Không có tiếng trả lời. Anh lại kêu to lên. Không có trả lời. Những người khác cũng họa theo. Tất cả, trừ Blackthorne. Chẳng bao lâu nỗi hoảng loạn và cơn buồn nôn vì bị nhốt kín len vào giọng của họ và họ tru lên như chó sói.
Nắp hầm mở ra. Omi nhìn xuống. Bên cạnh anh ta là Mura và gã thầy tu.
"Nước! Và thức ăn, lạy Chúa! Cho chúng tôi ra khỏi đây!." Họ cùng gào lên.
Omi ra hiệu cho Mura, ông này gật đầu và đi. Một lát sau Mura trở lại cùng một người đánh cá nữa, hai người khiêng một cái thùng lớn. Họ đổ ruột cá ươn và nước biển trong thùng lên đầu những người tù.
Những người trong hầm tản ra, cố gắng tránh nhưng đều không thể tránh được. Spillbergen bị nghẹt suýt chết đuối. Một vài người trượt chân và bị giẫm lên.
Blackthorne không rời khỏi góc của mình. Anh trân trân ngó nhìn lên Omi, lòng căm giận.
Rồi Omi bắt đầu nói. Một sự yên lặng kinh hoàng, chỉ còn có tiếng ho và tiếng ọe của Spillbergen. Khi ông nói xong, người thầy tu ngại ngần đến chỗ khe hở.
"Đây là lệnh của Kasigi Omi. Các anh bắt đầu phải hành động như những con người đứng đắn. Các anh không được làm ồn nữa. Nếu các anh làm ồn, lần sau sẽ đổ năm thùng nữa vào hầm. Rồi mười, rồi hai mươi. Các anh sẽ được cho thức ăn và nước uống hai lần một ngày. Khi nào các anh học được cách cư xử, các anh sẽ được phép lên với thế giới của con người. Chúa công Yabu đã ban ân cho tính mạng của tất cả các anh, nếu các anh phụng sự người một cách trung thành. Tất cả, trừ một người. Một người trong các anh phải chết. Lúc hoàng hôn. Các anh sẽ chọn xem người ấy là ai. Nhưng anh, - hắn chỉ vào Blackthorne,- anh sẽ không có ở trong số người được chọn..."
Bứt rứt, gã thầy tu hít một hơi dài, khẽ cúi chào gã Samurai và bước lùi lại.
Omi nhìn xuống hầm. Anh ta có thể nhìn thấy mắt Blackthorne và cảm nhận được lòng căm hờn. Phải mất nhiều công sức mới bẻ gãy được ý chí của con người này. Không sao. Thời gian có đủ.
Nắp hầm sập lại.
"Tôi đã nói với ông, chúng tôi không phải là hải tặc."
Buổi sáng hôm ấy trời trong và ấm áp. Blackthorne quỳ trước bệ đài của quảng trường làng, đầu vẫn còn đau vì cú đánh. Phải bình tĩnh và để cho đầu óc làm việc. Anh sắp bị xét xử để sống còn. Anh là người phát ngôn, chỉ có thế thôi. Sự thù địch của gã cha cố, và là người phiên dịch duy nhất có thể có, và anh sẽ không có cách nào biết được gã nói gì, trừ một điều chắc chắn gã sẽ không giúp đỡ gì anh đâu...
"Phải khôn ngoan, cậu cả", anh như nghe tiếng nói của Alban Caradoc. Khi bão tố cuồng nộ nhất và khi biển trở nên hãi hùng nhất, phải dùng trí khôn đặc biệt của mình. Điều đó sẽ giúp anh sống và con tàu của anh sống nếu anh là hoa tiêu. Hãy tập trung trí khôn và lấy chất nước ép ra từng ngày, cho dù khó khăn...
Chất nước ép hôm nay là mật đắng. Blackthorne nghĩ chua cay. Tại sao mình lại nghe tiếng nói của Anban rõ như thế nhỉ?
"Trước tiên, anh hãy nói với Daimyo là chúng ta đang có chiến tranh, chúng ta là kẻ thù của nhau", anh nói.
"Nói với ông ấy là England và Netherland đang có chiến tranh với Spain và Portugal..."
"Tôi nhắc anh một lần nữa là hãy nói đơn giản và đừng bóp méo sự kiện. Netherland hay Holland, Ailen hay các tỉnh Liên Hiệp, tất cả cái gì lũ phản loạn Holland các anh gọi nó, chỉ là một tỉnh nhỏ bé, nổi loạn của đế quốc Spain. Anh là người đứng đầu bọn phản loạn đang nổi loạn chống lại nhà vua hợp pháp của họ."
"Nước Anh đang có chiến tranh và Netherland đang bị lừa." Blackthorne không nói tiếp vì gã thầy tu không còn nghe mà đang dịch.
Daimyo đang ở trên bục đài, ông ta lùn, người vuông chằn chặn. Ông ta quỳ thoải mái, gót đặt phía sau, hai bên là bốn tỳ tướng, trong đó có Kasigi Omi, cháu và là chư hầu của ông. Tất cả đều mặc kimono lụa, áo khoác có trang trí, thắt lưng rộng bản thít lại và những bắp vai khổng lồ, cứng nhắc. Và tất nhiên là những thanh kiếm.
Mura quỳ dưới quảng trường. Ông ta là người làng duy nhất có mặt. Những người đứng nhìn duy nhất khác là năm mươi Samurai đến cùng Daimyo. Họ ngồi thành hàng yên lặng, trật tự. Đám người lộn xộn của thủy thủ đoàn ở phía sau Blackthorne. Cũng giống anh, tất cả đều quỳ và có lính gác ở bên. Họ phải khiêng hạm trưởng đến mặc dù ông đang bị ốm nặng. Ông được phép nằm dưới đất, vẫn trong tình trạng bán hôn mê. Blackthorne và đồng đội của anh, tất cả cúi chào khi họ tới trước mặt Daimyo, nhưng như vậy chưa đủ. Các Samurai ấn tất cả quỳ xuống, dúi đầu họ xuống đất theo cung cách của những nông dân. Anh đã cố gắng kháng cự, quát lên với thầy tu nhờ gã giải thích rằng phong tục của họ không như vậy, rằng anh là người chỉ huy và là sứ giả của đất nước mình nên phải được đối đãi tương xứng. Nhưng một cán giáo đã quật anh lặn xuống đất. Theo bản năng, đồng đội của anh tụm lại chuẩn bị tấn công, nhưng anh quát họ dừng lại và quỳ xuống. May mà họ tuân lệnh. Vị Daimyo nói một điều gì bằng một giọng trong cuống họng, thầy tu dịch, cảnh cáo anh phải nói sự thật, và nói mau. Blackthorne yêu cầu một cái ghế, nhưng gã thầy tu nói người Nhật không dùng ghế và không có một cái ghế nào ở Nhật Bản cả.
Blackthorne tập trung chú ý vào gã thầy tu khi gã nói với Daimyo, cố tìm một đầu mối, một con đường qua mạch đá này.
Có một sự kiêu căng và tàn ác trên nét mặt lão Daimyo, anh nghĩ. Mình chắc hắn ta là một thằng chó đẻ thật sự. Tiếng Nhật của gã thầy tu này không được lưu loát. À, thấy không? Bực bội và mất kiên nhẫn. Có phải lão Daimyo này hỏi một chữ khác, một chữ rõ hơn không? Mình nghĩ thế. Tại sao cái gã thầy tu này lại mặc áo dài màu da cam? Cái lão Daimyo có phải là người theo đạo Cơ đốc không? Coi này, cái gã Jesuit này rất cung kính và toát mồ hôi. Mình chắc lão Daimyo không phải người đi đạo. Phải chính xác mới được. Có lẽ lão không phải là người đi đạo. Thế nào chăng nữa cũng chẳng thể mong sự thương xót ở lão ta. Mình có thể sử dụng cái thằng chó đẻ xấu xa này thế nào đây? Làm thế nào để nói thẳng với lão. Mình sẽ tác động lão thầy tu này thế nào? Làm thế nào để gã bị mất tín nhiệm? Mồi là gì? Nào, hãy suy nghĩ! Anh chẳng đã biết đủ về bọn Jesuit đó ư?
"Daimyo bảo hãy nói nhanh lên và trả lời những câu hỏi của ông ấy."
"Vâng. Tất nhiên, tôi xin lỗi. Tôi tên là John Blackthorne. Tôi là người Anh, thiếu tá hoa tiêu của hạm đội Netherland. Cảng xuất phát của chúng tôi là Amsterdam."
"Hạm đội? Hạm đội nào? Anh nói láo. Chẳng có hạm đội nào hết. Tại sao một hoa tiêu người Anh lại ở trên một tàu Holland?"
"Cứ thong thả. Trước hết làm ơn dịch những điều tôi vừa nói..."
"Tại sao anh lại là hoa tiêu trên một chiến thuyền Holland? Nhanh lên!"
Blackthorne quyết định đánh một canh bạc. Giọng anh đột nhiên đanh lại, vang lên trong cái ấm áp của buổi sáng.
"Khỉ thật! Dịch những điều tôi nói đi đã, tên Spain kia! Nhanh lên!"
Gã thầy tu đỏ mặt.
"Tôi là người Portugal. Tôi đã nói với anh rồi. Trả lời câu hỏi đi..."
"Tôi ở đây để nổi chuyện với vị Daimyo kia, không phải với anh. Dịch những điều tôi nói, đồ rác rưởi vô thừa nhận kia!" Blackthorne thấy gã thầy tu đỏ mặt lên nữa và cảm thấy điều đó không thoát được sự chú ý của lão Daimyo. Phải thận trọng, anh tự cảnh giác mình. Cái thằng chó đẻ da vàng này sẽ nghiền mày ra từng mảnh, nhanh hơn một đàn cá mập nếu mày không chế ngự được mình." Nói với ông chúa Daimyo đi!" Blackthorne cố tình chào thật thấp trước bệ và cảm thấy mồ hôi lạnh bắt đầu đọng thành giọt khi anh quyết định hành động như thế.
Cha Sebastio biết sự đào luyện của gã làm gã không tiếp thu nổi những điều sỉ nhục của tên hải tặc và rõ ràng đó là cách làm gã mất tín nhiệm trước vị Daimyo. Nhưng thoạt đầu, nó lại không như thế và gã cảm thấy bối rối. Khi người của Mura tới tòa sứ của gã ở tỉnh bên để đưa tin về con tàu, gã đã do dự. Không thể là tàu Holland hoặc Anh! Gã nghĩ vậy. Trước nay chưa hề có một chiếc tàu của kẻ dị giáo nào ở biển Thái Bình Dương trừ thuyền của tên hải tặc Drake, nhưng chưa bao giờ hắn ta lại ở châu Á. Những con đường là bí mật và đã được canh phòng. Lập tức gã chuẩn bị đi và đã cho một con chim đưa thư mang một bức điện tới thượng cấp của gã ở Osaka. Xin chỉ thị của thượng cấp. Biết mình còn trẻ, hầu như không được thử thách, còn mới lạ đối với Nhật Bản, mới ở đây vỏn vẹn hai năm, chưa được bổ nhiệm, chưa đủ khả năng để đương đầu với tình thế khẩn cấp này, gã đã băng lới Anjiro, hi vọng và cầu nguyện cho tin này là không đúng. Nhưng tàu là tàu Holland và hoa tiêu là người Anh. Tất cả nỗi niềm căm ghét của gã đối với Luther, Calvin, Henry 8 và đứa con gái ác quỷ của lão ta - Elizabeth, đã choán ngợp lấy gã, làm mờ tâm trí của gã.
"Thầy tu, dịch câu tên hải tặc vừa nói", gã nghe tiếng lão Daimyo nói. Ôi, Đức Mẹ, hãy giúp con thực hiện ý nguyện của Người. Hãy giúp con sức mạnh trước mặt lão Daimyo này, hãy cho con khẩu khiếu và hãy cho con chuyển tới lão ta Niềm Tin Chân Chính.
Cha Sebastio thu hết khôn ngoan, bắt đầu nói một cách tự tin hơn.
Blackthorne chăm chú lắng nghe, cố nhặt ra những từ và ý nghĩa của nó. Gã nói.
"Nước Anh",
"Blackthorne" và chỉ vào con tàu buông neo gọn ghẽ ngoài bến cảng.
"Làm sao anh tới đây được?" cha Sebastio nói.
"Bằng đường eo Magellan. Từ đó tới đây một trăm ba mươi sáu ngày. Hãy nói với Daimyo."
"Anh nói láo. Đường eo Magellan là bí mật. Anh tới đây qua châu Phi và Ấn Độ. Cuối cùng, nhất định anh phải nói sự thật. Ở đây người ta tra tấn đấy."
"Eo là bí mật. Một người Portugal bán cho chúng tôi một hải trình. Một người đồng bào của ông đã bán các ông lấy đồng tiền vàng phản bội của Giuđa. Tất cả các anh đều là phân, là cứt! Bây giờ, tất cả chiến thuyền của England và Holland đều biết đường qua Thái Bình Dương. Có một hạm đội, hai mươi chiến thuyền lớn của England, sáu mươi chiến thuyền có đại bác, đang tấn công Manila ngay lúc này. Đế quốc của ngươi sẽ chấm dứt..."
"Anh nói láo!"
Phải, Blackthorne nghĩ, không cách nào chứng minh được điều dối trá đó, trừ phi tới Manila." Hạm đội đó sẽ cầy tung những lằn đường biển của các ông và đập nát những thuộc địa của các ông. Một hạm đội Holland nữa cũng sẽ tới đây vào bất kể tuần nào. Con lợn Bồ - Spain sẽ quay về chuồng lợn của nó và ăn phân tại cái ổ của nó?" Anh quay đi và cúi thật thấp chào lão Daimyo.
"Chúa nguyền rủa mày cùng cái mồm bẩn thỉu của mày!"
"Ano mono wa nami o moshité oru?" Lão Daimyo bật lên một cách nôn nóng.
Gã thầy tu nói nhanh hơn, nhấn mạnh hơn.
"Magellan" và.
"Manila" nhưng Blackthorne nghĩ rang lão Daimyo và các tỳ tướng của lão dường như không hiểu gì lắm.
Yabu đã mệt mỏi vì cuộc xét xử này. Lão. nhìn ra ngoài bến cảng, phía con tàu đã ám ảnh lão từ khi nhận được tin mật của Omi. Lão lại tự hỏi, không biết có phải đây là món quà của các vị thần linh mà lão từng ao ước hay không?
"Cháu đã khám xét hàng hóa chưa, Omi-san?." Sáng nay, khi vừa tới nơi, người còn mệt mỗi lấm lem bùn đất, lão đã hỏi.
"Thưa Chúa công, chưa. Cháu nghĩ tốt nhất là niêm phong tàu lại, chờ ngài tới. Nhưng những khoang tàu đầy ắp những hòm đồ và những kiện hàng. Cháu hi vọng đã hành động đúng. Đây là tất cả chìa khóa của họ. Cháu đã tịch thu."
"Tốt." Yabu tới từ Yedo, thủ phủ của Toranaga cách đây hơn một trăm dặm. Vội vã, lén lút, hết sức nguy hiểm cho bản thân và sống chết phải trở lại cũng nhanh như vậy. Cuộc hành trình đã mất gần hai ngày trên những tuyến đường xấu và những con suối đầy nước, một phần đi ngựa, một phần đi cáng.
"Ta sẽ ra tàu ngay."
"Thưa Chúa công, xin chúa công hãy xem những người ngoại quốc đã..." Omi nói với một tiếng cười,
"Không thể tin được. Hầu hết đều mắt xanh giống như mèo Xiêm và tóc vàng. Nhưng tin tức hay nhất là họ là hải tặc..."
Omi đã kể cho lão nghe về gã thầy tu. Những điều gã kể về lũ hải tặc và những điều tên hải tặc nói cùng những việc đã xảy ra làm nỗi kích thích của lão tăng lên gấpba. Yabu đã thắng được sự nôn nóng của mình, định lên tàu và bóc niêm phong. Thay vào đó, lão đã tắm thay quần áo và ra lệnh đem lũ rợ đến trước mặt mình.
"Anh thầy tu kia", lão nói giọng đanh lại, làm như không thể hiểu nổi cách phát âm rất tồi của gã thầy tu.
"Tại sao hắn ta lại cáu giận với anh như thế?.."
"Hắn ta xấu. Hải tặc. Hắn thờ quỷ."
Yabu nghiêng người về phía Omi ở phía tay trái mình.
"Cháu có hiểu gã nói gì không? Nó nói láo phải không? Cháu nghĩ thế nào?"
"Thưa chúa công, con không biết. Ai mà biết lũ rợ tin cái gì. Theo con, gã thầy tu cho rằng tên hải tặc là kẻ thờ quỷ. Tất nhiên, tất cả những cái đó là phi lý."
Yabu quay lại gã thầy tu, thấy ghét cái gã này. Lão ao ước có thể đóng đinh câu rút gã hôm nay, triệt tiêu công giáo khỏi địa hạt của mình. Nhưng không thể được. Mặc dù lão và tất cả các Daimyo khác có toàn quyền trong địa hạt của mình, họ vẫn phụ thuộc vào uy quyền tối cao của Hội đồng nhiếp chính, hội đồng tướng lĩnh mà Taiko đã chính thức ủy quyền trong thời gian con ông còn thơ dại, cũng phải lệ thuộc vào huấn lệnh mà Taiko đã ban hành từ nhiều năm trước đây vẫn còn hiệu lực. Một trong những điều được ban hành từ nhiều năm trước đây có liên quan đến rợ Portugal. Lệnh ban rằng họ là những người được che chở và, trong giới hạn của nó, tôn giáo của họ phải được khoan nhượng, các thầy tu được phép, trong giới hạn, cải đạo và đổi tín ngưỡng.
"Anh thầy tu kia? Tên hải tặc còn nói gì nữa? Hắn ta nói gì với anh? Nhanh lên! Anh mất lưỡi rồi sao?"
"Hải tặc nói những điều xấu xa. Xấu xa. Nói có nhiều... chèo thuyền chiến của cướp - nhiều..."
"Anh nói sao, chèo thuyền chiến..."
"Xin lỗi Chúa công, tôi không hiểu..."
"Chèo thuyền chiến, không có nghĩa gì cả, hả?"
"À! Hải tặc nói những tàu chiến khác ở Manila, ở Philippines."
"Omi-san, cháu có hiểu anh ta nói gì không?"
"Thưa Chúa công, không. Cách nói của hắn khủng khiếp líu ríu cả lại. Không biết có phải hắn nói có nhiều tàu khác của hải tặc ở phía Đông Nhật Bản không."
"Anh thầy tu kia? Có phải có tàu khác của hải tặc ở ngoài khơi của chúng ta không? Phía Đông? Hả?"
"Thưa Chúa công, vâng. Nhưng tôi nghĩ anh ta nói láo. Anh ta nói ở Manila."
"Tôi không hiểu anh. Manila ở đâu?"
"Phía Đông. Đi nhiều ngày..."
"Nếu tàu hải tặc đến đây, chúng ta sẽ đón tiếp họ nồng nhiệt, bất kể Manila ở đâu."
"Xin tha lỗi, tôi không hiểu..."
"Không sao", Yabu nói, sự kiên nhẫn của, lão đã hết. Lão quyết định những người lạ này phải chết và khoái cảnh tượng ấy. Rõ ràng những người này không nằm trong lệnh của Taiko, ngoại trừ rợ Portugal, mà dù sao thì họ cũng là hải tặc. Xưa nay lão vẫn ghét lũ rợ, mùi hôi của họ, sự bẩn thỉu và thối quen ăn thịt tởm lợm của họ, cái tôn giáo ngu ngốc, sự kiêu căng và những cung cách đáng ghét của họ. Hơn thế, lão lấy làm hổ thẹn, như tất cả những Daimyo khác, bởi cái thòng lọng của họ trên mảnh đất này. Một tình trạng chiến tranh đã tồn tại giữa Trung Quốc và Nhật Bản trong nhiều thế kỷ. Trung Quốc không cho phép buôn bán. Hàng lụa Trung Quốc là thứ để giúp cho mùa hè dài dằng dặc, nóng bức và ẩm thấp ở Nhật Bản có thể chịu nổi. Hàng bao nhiêu thế hệ nay, chỉ có một số lượng nhỏ xíu hàng lụa nhập trái phép lọt qua được biên giới và chỉ có thể kiếm được với giá cắt cổ của Nhật Bản. Thế rồi hơn sáu mươi năm về trước, lũ rợ đầu tiên đã tới. Thiên Hoàng Trung Hoa ở Bắc Kinh cho họ một căn cứ thường trực nhỏ xíu tại Macao, ở miền Nam Trung Quốc, và đồng ý đổi lụa lấy bạc. Nhật Bản có nhiều bạc. Chẳng bao lâu việc buôn bán nở rộ. Cả hai nước đều thịnh vượng. Những người trung gian, những người Portugal trở nên giàu có và những thầy tu của họ - chủ yếu là những Jesuit - chẳng bao lâu đã nắm quyền quyết định công cuộc thương mại. Chỉ có các thầy tu đã học được tiếng Trung Quốc và tiếng Nhật, do đó có thể làm người môi giới và phiên dịch. Thương mại nở rộ thì các thầy tu càng trở nên cần thiết. Giờ đây công việc buôn bán hàng năm hết sức lớn và ảnh hưởng tới đời sống của mỗi Samurai. Bởi vậy các thầy tu phải được khoan thứ và việc truyền đạo của họ cũng phải được tha thứ, nếu không thì bọn rợ sẽ cuốn gói đi và việc buôn bán sẽ dừng lại.
Hiện đã có số Daimyo công giáo rất quan trọng và hàng trăm ngàn người cải đạo, hầu hết là ở Kyushu, bán đảo phía Nam gần Trung Quốc nhất và gồm cả cảng Nagasaki của Portugal. Tuy nhiên, Yabu nghĩ, chúng ta có thể tha thứ cho bọn thầy tu và bọn Portugal, nhưng không phải bọn rợ này, những tên mới này, những tên có mắt xanh tóc vàng không thể nào tin nổi. Sự phấn khích làm lão ngột ngạt. Giờ đây, lão có thể thoả mãn tính tò mò xem một tên rợ sẽ chết như thế nào khi bị tra tấn. Và lão có mười một người, mười một cách thí nghiệm khác nhau. Lão không bao giờ tự ái, tại sao nỗi thống khổ của người khác lại làm cho lão sung sướng. Lão chỉ biết nó làm lão sung sướng và vì thế, nó là một cái gì cần được tìm kiếm và tận hưởng.
Yabu nói:
"Con tàu này là ngoại quốc, không phải Portugal và nó là hải tặc nên sẽ bị tịch thu cùng mọi thứ trong đó. Tất cả bọn hải tặc sẽ bị kết..." Mồm lão há hốc ra khi thấy tên cầm đầu hải tặc nhảy xổ vào gã thầy tu và giật cây thánh giá gỗ khỏi thắt lưng gã, bẻ nó ra từng mảnh, quăng chúng xuống đất rồi hét lên một tiếng gì đó rất to. Tên hải tặc lập tức quỳ xuống cúi chào rất thấp khi những người gác xông đến tay giơ cao kiếm.
"Dừng lại! Đừng giết hắn..." Yabu kinh ngạc vì có ké dám hành động láo xược, vô lễ như vậy trước mặt mình." Bọn rợ này không thể nào tướng tượng nổi..."
"Vâng", Omi nói, trí óc anh ta tràn ngập những câu hỏi, không hiểu hành động ấy có nghĩa gì.
Gã thầy tu vẫn quỳ, mắt nhìn chăm chăm vào những mảnh thánh giá. Họ nhìn tay gã run run nhặt những mảnh gỗ bị xúc phạm. Gã nói điều gì đó với tên hải tặc, giọng nhỏ nhẹ gần như êm ái. Đôi mắt tên nhắm lại, những ngón tay chụm và đôi môi bắt đầu chuyển động chậm chạp. Tên trùm hải tặc nhìn họ bất động, đôi mắt màu xanh xám không chớp, như mắt mèo trước thủy thủ đoàn của mình.
Yabu nói:
"Omi-san, trước tiên chú muốn lên tàu. Sau đó chúng ta sẽ bắt đầu..." Giọng lão đặc lại khi ngẫm nghĩ tới cái khoái lạc lão đã hứa dành cho mình.
"Chú muốn bắt đầu bằng cái tên tóc đỏ ở cuối hàng kia kìa, cái gã nhỏ con ấy..."
Omi ghé lại gần hơn và hạ thấp giọng nói bị kích động của mình:
"Xin Chúa công tha lỗi, những điều này trước đây chưa hề có. Kể từ khi rợ Portugal tới đây, cây thánh giá có phải là biểu hiện thiêng liêng của họ không? Có phải họ luôn luôn kính trọng các vị thầy tu của mình không? Có phải họ luôn quỳ trước mặt thầy tu một cách công khai? Có phải các thầy tu có quyền tuyệt đối với họ không?."
"Đi thẳng vào vấn đề..."
"Thưa Chúa công, tất cả chúng ta đều ghét người Portugal. Chỉ trừ những người theo đạo Thiên Chúa trong chúng ta. Có lẽ bọn rợ này có giá trị đối với Chúa công khi còn sống hơn là khi họ chết..."
"Sao vậy?"
"Bởi vì họ là độc nhất. Họ chống Thiên Chúa! Có lẽ một người khôn ngoan có thể tận dụng lòng căm thù của họ - hoặc sự vô tôn giáo của họ - cho mục đích của chúng ta. Họ là tài sản của Chúa công, Chúa công muốn làm gì thì làm. Phải không ạ?"
Phải. Và ta muốn chúng bị tra tấn, Yabu nghĩ. Phải, nhưng ta có thể hưởng điều đó bất cứ lúc nào. Hãy nghe Omi. Nó là một cố vấn tốt. Nhưng bây giờ có nên tin cậy nó không? Không biết nó có lý do bí mật nào để nói điều này không? Thử suy nghĩ xem.
"Ikaoa Jikkiu là người đi đạo", lão nghe tiếng cháu gọi tên kẻ thù đáng căm ghét của mình - một trong những họ hàng và đồng minh của Ishido - đóng tại biên giới phía Tây của lão.
"Cái tên cố đạo bẩn thỉu này đã chẳng có nhà ở đó ư? Cớ lẽ bọn rợ này có thể cho Chúa công chìa khóa để mở toàn bộ tỉnh Ikaoa. Có lẽ cả Ishido. Có lẽ cả chính Toranaga nữa", Omi nói thêm một cách tế nhị.
Yabu quan sát nét mặt của Omi, cố gắng tìm ra điều gì phía sau đó. Rồi lão ngó ra con tàu. Bây giờ, không còn nghi ngờ gì nữa, các vị thần linh đã đưa nó lại cho lão Phải. Nhưng đó là một món quà hay là một tai ương? Lão gạt sự khoái lạc của mình sang một bên, nhường nó cho sự an toàn của bộ tộc. mình.. Ta đồng ý, nhưng trước hết hãy khuất phục bọn hải tặc này. Dạy cho chúng nề nếp. Đặc biệt hắn!
"Cái chết ngọt ngào của Chúa!" Vinck lẩm bẩm.
"Chúng ta nên cầu nguyện", Van Nekk nói.
"Chúng tôi vừa cầu nguyện một bài rồi..."
"Có lẽ chúng ta nên cầu nguyện thêm một bài nữa. Lạy Chúa trên trời, có nửa lít rượu thì hay quá."
Họ bị nhốt vào một cái hầm sâu, một trong rất nhiều những cái hầm vốn dùng để chứa cá khô. Các Samurai đã lùa họ qua quảng trường, xuống một cái thang và hiện họ bị nhốt ở dưới đất. Hầm này dài năm bước, rộng năm bước, sâu bốn bước, nền và tường là đất. Trần làm bằng những tấm ván, trên là một lớp đất và một nắp hầm duy nhất.
"Tránh chân tao ra, đồ khỉ bị Chúa nguyền rủa..."
"Câm cái mõm, đồ gắp cứt!" Pieterzoon nói hồn hậu." Hây! Vinck, nhích ra một tí, cái đồ lắm mồm, mày có nhiều chỗ hơn tất cả mọi người! Lạy Chúa, giá mà có được một cốc bia lạnh! Nhích lên."
"Không thể nhích được, Pieterzoon. Ở đây chúng tớ chật hơn cả lỗ đít của gái đồng trinh rồi."
"Chính hạm trưởng. Ông ta chiếm hết cả chỗ. Đẩy cho ông ta một cái. Đánh thức dậy!" Maetsukker nói.
"Hả? Có chuyện gì thế? Để cho tao yên. Có chuyện gì vậy? Tao ốm. Tao phải nằm. Chúng mình ở đâu thế này?"
"Để mặc ông ấy. Ông ấy ốm. Nào, Maetsukker, dậy đi, lạy Chúa..."
Vinck giận dữ lôi Maetsukker dậy, đẩy anh ta vào tường. Không đủ chỗ để tất cả đều nằm hoặc thậm chí để cùng ngồi cho thoải mái.
Hạm trưởng Paulus Spillbergen nằm duỗi dài ngay dưới cửa hầm, nơi thoáng gió nhất, đầu gối vào chiếc áo khoác gấp lại. Blackthorne ngồi tựa vào một góc, mắt đăm đăm nhìn lên nấp hầm. Cả đội thuyền đã để mặc anh, cố hết sức tránh anh một cách không thoải mái. Kinh nghiệm đã cho họ hiểu tính tình của anh, cái hung bạo lầm lì luôn ẩn trong cái bề ngoài lặng lẽ.
Maetsukker nổi xung lên, đấm vào háng Vinck.
"Để cho tao yên, không tao sẽ giết mày đó, đồ chó đẻ..."
Vinck lao vào anh ta, nhưng Blackthorne nắm lấy cả hai và giúi đầu họ vào tường.
"Bọn mày câm cái mồm", anh nói nhẹ nhàng. Họ đã làm như được ra lệnh.
"Chúng ta sẽ chia lượt nhau. Một người ngủ, một người ngồi, một người đứng. Spillbergen sẽ nằm cho đến khi lại sức. Cái góc kia là nhà xí..." Anh chia họ ra. Khi đã sắp xếp lại thì dễ chịu hơn một chút.
Chúng ta sẽ phải vượt ra khỏi chỗ này trước khi kiệt sức. Blackthorne nghĩ vậy. Khi nào chúng thả thang xuống để cho thức ăn và nước uống? Đêm nay hay đêm mai? Tại sao chúng lại đẩy chúng ta xuống đây? Chúng ta có phải là mối đe dọa đâu? Chúng ta có thể giúp lão Daimyo đó. Không biết lão có hiểu không? Cách duy nhất của mình là chỉ cho lão thấy gã. thầy tu là kẻ thù thật sự của chúng ta. Nhưng lão có hiểu không? Gã thầy tu thì hiểu.
"Có lẽ Chúa có thể tha thứ cho sự báng bổ của ngươi, nhưng ta thì không", cha Sebastio khẽ nói.
"Ta sẽ không bao giờ nghỉ ngơi cho đến khi ngươi và sự độc hại của ngươi bị tiêu diệt."
Mồ hôi ròng ròng chảy xuống má và cằm. Anh gạt đi một cách lơ đãng, tai ngóng lên y như khi anh còn ở trên tàu và đang ngủ, không cảnh giác nữa, buông thả, vừa đủ để nghe được nguy hiểm trước khi nó xảy đến.
Chúng ta sẽ phải thoát khỏi chỗ này và lấy lại tàu. Không hiểu Felicity lúc này đang làm gì? Và lũ trẻ nữa. Xem nào, Tudor bây giờ lên bảy rồi và Lisbeth thì... Chúng ta đã đi một năm mười một tháng, sáu ngày. Từ Chatham tới đó, sau đó thêm mười một ngày nữa. Đó chính là tuổi của nó. Nếu tất cả mọi chuyện đều tốt đẹp. Mọi việc cần được tốt đẹp. Felicity sẽ nấu nướng, sẽ trông nom, sẽ lau dọn, sẽ trò chuyện và lũ trẻ sẽ lớn lên khỏe mạnh và không hề biết sợ hãi giống như mẹ chúng. Tốt đẹp biết mấy nếu như lại được về nhà, đi trên bờ biển, trong rừng, trong bóng râm mát, trong cái đẹp, đó là England.
- Giải thích, Chatham: một thành phố ở Đông Nam England, ở miền Bắc Kent trên sông Medway: Xưởng sửa chữa và đóng tàu của Hải quân Hoàng gia. Hết giải thích.
Đã bao năm anh rèn luyện mình để nghĩ về họ như về những nhân vật trong một vở kịch, những người mình yêu, vì họ mà mình đổ máu. Một vở kịch không có tận cùng. Nếu không, nỗi đau chia cách sẽ là quá lớn. Anh hầu như có thể đếm được những ngày anh ở nhà trong mười một năm lấy vợ. Quá ít, anh nghĩ, quá ít.
"Đối với một người phụ nữ, cuộc sống như thế vất vả quá, Felicity", trước đó anh đã từng nói, và nàng đáp:
"Cuộc sống nào cũng vất vả đối với người phụ nữ." Lúc ấy nàng mười bảy tuổi, cao, tóc dài, mượt.
Lỗ tai anh báo cho anh phải canh chừng.
Mấy người đang ngồi, tựa vào tường hay cố gắng ngủ. Vinck và Pieterzoon, hai người bạn thân đang nói chuyện một cách lặng lẽ. Van Nekk ngó chăm chăm vào khoảng không cùng với những người khác. Spillbergen mơ mơ màng màng. Blackthorne nghĩ, con người này mạnh mẽ hơn là người ta tưởng.
Một sự yên lặng đột ngột khi họ nghe thấy tiếng bước chân trên đầu. Bước chân dừng. Những giọng nói nén lại trong một thứ tiếng nghe gai gai và lạ. Blackthorne nhận ra, hình như tiếng nói của Samurai Omi-san? Phải, đó là tên anh ta - nhưng anh không dám chắc. Trong giây lát, những giọng nói ngừng lại và bước chân bỏ đi.
"Hoa tiêu, anh có nghĩ là họ cho chúng ta ăn không?" Sonk hỏi.
"Có."
"Có chút gì uống nhỉ? Bia lạnh, lạy Chúa", Pieterzoon nói.
"Câm mồm", Vinck nói.
"Cậu cũng đủ để làm người ta vã mồ hôi ra đấy."
Blackthorne nhận thấy chiếc áo sơ mi của mình đã ướt sũng. Và mùi hôi thối. Lạy Chúa lòng lành, giá mà tắm được một cái, anh nghĩ và bất giác mỉm cười, nhớ lại.
Hôm ấy Mura và những người khác đã khiêng anh vào trong phòng ấm và đặt anh nằm trên một chiếc ghế đá. Tứ chi anh vẫn còn tê dại và cử động chậm chạp. Ba người đàn bà do một mụ già như phù thủy dẫn đầu, bắt đầu cởi quần áo anh, anh đã cố ngăn họ nhưng mỗi lần cử động, một trong những người đàn ông lại điểm huyệt làm anh mất khả năng kháng cự. Mặc anh hò hét, chửi rủa, họ cứ tiếp tục lột trần truồng anh ra. Anh không xấu hổ vì không có quần áo trước phụ nữ mà vì việc cởi bỏ quần áo bao giờ cũng được làm kín đáo và đó là phong tục. Và anh không thích người khác cởi quần áo của mình, nói gì tới những người bản xứ thiếu văn minh này. Bị lột quần áo trước mặt mọi người như một đứa trẻ không biết bấu víu vào đâu và được kỳ cọ khắp người bằng nước xà bông ấm và thơm trong khi họ trò chuyện và cười còn anh thì nằm ngửa như một đứa trẻ là điều quá sức…
Rồi họ đặt anh nhẹ nhàng vào nước nóng, khói bốc nghi ngút, chẳng mấy chốc anh không sao chịu nổi, họ lại để anh thở lấy hơi trên chiếc ghế dài một lần nữa. Người đàn bà lau khô người cho anh và một ông già mù tới. Blackthorne chưa bao giờ biết tẩm quất là gì. Thoạt đầu anh đã cố kháng cự lại những ngón tay mò mẫm nhưng rồi cái kỳ ảo của chúng đã quyến rũ anh và chẳng mấy chốc, anh rên rỉ như một con mèo khi những ngón tay ấy lần tìm được những đốt xương, khai thông mạch máu, đánh thức sức sống ẩn tàng dưới làn da, dưới bắp thịt của anh.
Rồi anh được đỡ vào giường, người yếu kỳ lạ, nửa như trong mơ và một cô gái đã ở đó. Cô rất kiên nhẫn với anh. Sau khi ngủ, anh lại sức và đã.
"Đi lại" với cô một cách thận trọng.
Anh không hỏi tên cô, sáng hôm sau khi Mura, căng thẳng và rất sợ hãi, đến kéo anh ra khỏi giấc ngủ, cô đã đi rồi.
Blackthorne thở dài. Cuộc sống kỳ diệu thay, anh nghĩ.
Hạm trưởng Spillbergen lại đổ quạu. Maetsukker vỗ đầu rên rỉ, không phải vì đau đớn mà vì sợ hãi. Cậu bé Croocq như kiệt sức. Jan Roper thì nói:
"Có chuyện gì mà mỉm cười vậy, hoa tiêu?"
"Ồ mẹ khỉ..."
"Nói thật tình, hoa tiêu ạ", Van Nekk nói thận trọng, bộc lộ tất cả những điều suy nghĩ.
"Anh thật dở hết sức khi tấn công tên thầy tu trước mặt thằng chó đẻ da vàng xấu xa."
Tất cả đều đồng ý mặc dù sự đồng ý đó được biểu lộ một cách thận trọng.
"Nếu anh không làm điều đó thì chúng ta đã chẳng phải ở cái chốn hỗn độn thối tha này."
Van Nekk không lại gần Blackthorne:
"Anh chỉ việc chui đầu vào bụi khi cái tên chúa chó đẻ đó có mặt, và bọn họ đều lành như những con cừu..."
Anh ta đợi câu trả lời nhưng Blackthorne không nói gì hết, chỉ quay nhìn về phía nấp hầm. Làm như không ai nói năng câu gì vậy. Nỗi bồn chồn của họ lại tăng thêm.
Paulus Spillbergen chống khuỷu tay nhổm dậy một cách khó khăn.
"Cậu nói gì vậy, Baccus?"
Van Nekk tiến lại giải thích chuyện người thầy tu và cây thánh giá, về những điều đã xảy ra và vì sao họ lại ở đây? Hôm nay mắt anh tồi tệ hơn bao giờ hết.
"Đúng, cái đó nguy hiểm, thiếu tá hoa tiêu ạ", Spillbergen nói.
"Đúng, tôi cũng thấy hoàn toàn sai lầm - cho tôi tí nước..."
"Bây giờ cái tên Jesuit sẽ không để cho chúng ta yên đâu..."
"Đáng lý anh phải bẻ gãy cổ nó, hoa tiêu. Đằng nào thì cái tên Jesuit đó cũng không để cho chúng ta yên"- Jan Roper nói." Chúng là lũ chấy rận bẩn thỉu và chúng ta thì ở trong cái ổ hôi thối này như một sự trừng phạt của Chúa..."
"Vô lý, Roper", Spillbergen nói.
"Chúng ta ở đây bởi..."
"Đó là sự trừng phạt Của Chúa! Đáng lẽ chúng ta phải đốt tất cả nhà thờ ở Santa Magdellana - chứ không phải chỉ hai cái. Lẽ ra phải vậy. Những hố phân của quỷ Satan!"
Spillbergen đập con ruồi một cách yếu ớt.
"Bọn lính Spain đã tập hợp lại và chúng ta bị thua sút về quân số, một chọi mười lăm. Cho tôi chút nước! Chúng ta đã cướp bóc thành phố, ấn mũi bọn chúng xuống bùn. Nếu chúng ta ở lại, chúng ta đã bị giết chết, nếu chúng ta không rút..."
"Có hề gì nếu ta đang làm công việc của Chúa? Chúng ta đã làm Người thất vọng..."
"Có lẽ chúng ta ở đây để làm công việc của Chúa", Van Nekk hòa giải, bởi vì' Roper là một con người hay ghen tuông nhưng tốt bụng, một nhà buôn khôn ngoan và là con trai của người cộng sự với ông." Có lẽ chúng ta có thể chỉ cho những người bản xứ ở đây thấy cái sai lầm của bọn thầy tu. Có lẽ chúng ta có thể cải đạo để họ đến với Niềm Tin Chân Chính."
"Đúng lắm", Spillbergen nói. Ông vẫn còn cảm thấy yếu, nhưng sức khỏe của ông đã lần lần trở lại.
"Tôi nghĩ anh nên tham khảo ý kiến Baccus, thiếu tá hoa tiêu. Dù sao, ông ấy cũng là lái buôn chính. Theo tôi nghĩ, ông ấy rất giỏi việc thương lượng với lũ rợ. Cho tí nước. Tôi đã bảo mà!"
"Không có tí nước nào hết, Paulus ạ", nỗi u ám của Van Nekk càng tăng lên." Chúng không cho chúng ta thức ăn hoặc nước gì hết. Thậm chí chúng ta không có cả một cái bô để đi tè nữa..."
"Ờ, hỏi xin một cái bô và một ít nước. Lạy Chúa ở trên trời, tôi khát quá. Hỏi xin một chút nước! Cậu!"
"Tôi?" Vinck hỏi.
"Ừ, cậu."
Vinck nhìn Blackthorne, nhưng Blackthorne chỉ ngó cánh cửa hầm như lạc thần trí, bởi vậy Vinck đứng dưới chỗ hở kêu to:
"Hây! Các anh trên ấy ơi! Cho chúng tớ ít ngụm nước Chúa nguyền rủa! Chúng tớ cần thức ăn và nước?"
Không có tiếng trả lời. Anh lại kêu to lên. Không có trả lời. Những người khác cũng họa theo. Tất cả, trừ Blackthorne. Chẳng bao lâu nỗi hoảng loạn và cơn buồn nôn vì bị nhốt kín len vào giọng của họ và họ tru lên như chó sói.
Nắp hầm mở ra. Omi nhìn xuống. Bên cạnh anh ta là Mura và gã thầy tu.
"Nước! Và thức ăn, lạy Chúa! Cho chúng tôi ra khỏi đây!." Họ cùng gào lên.
Omi ra hiệu cho Mura, ông này gật đầu và đi. Một lát sau Mura trở lại cùng một người đánh cá nữa, hai người khiêng một cái thùng lớn. Họ đổ ruột cá ươn và nước biển trong thùng lên đầu những người tù.
Những người trong hầm tản ra, cố gắng tránh nhưng đều không thể tránh được. Spillbergen bị nghẹt suýt chết đuối. Một vài người trượt chân và bị giẫm lên.
Blackthorne không rời khỏi góc của mình. Anh trân trân ngó nhìn lên Omi, lòng căm giận.
Rồi Omi bắt đầu nói. Một sự yên lặng kinh hoàng, chỉ còn có tiếng ho và tiếng ọe của Spillbergen. Khi ông nói xong, người thầy tu ngại ngần đến chỗ khe hở.
"Đây là lệnh của Kasigi Omi. Các anh bắt đầu phải hành động như những con người đứng đắn. Các anh không được làm ồn nữa. Nếu các anh làm ồn, lần sau sẽ đổ năm thùng nữa vào hầm. Rồi mười, rồi hai mươi. Các anh sẽ được cho thức ăn và nước uống hai lần một ngày. Khi nào các anh học được cách cư xử, các anh sẽ được phép lên với thế giới của con người. Chúa công Yabu đã ban ân cho tính mạng của tất cả các anh, nếu các anh phụng sự người một cách trung thành. Tất cả, trừ một người. Một người trong các anh phải chết. Lúc hoàng hôn. Các anh sẽ chọn xem người ấy là ai. Nhưng anh, - hắn chỉ vào Blackthorne,- anh sẽ không có ở trong số người được chọn..."
Bứt rứt, gã thầy tu hít một hơi dài, khẽ cúi chào gã Samurai và bước lùi lại.
Omi nhìn xuống hầm. Anh ta có thể nhìn thấy mắt Blackthorne và cảm nhận được lòng căm hờn. Phải mất nhiều công sức mới bẻ gãy được ý chí của con người này. Không sao. Thời gian có đủ.
Nắp hầm sập lại.
Bạn cần đăng nhập để bình luận