Shogun Tướng Quân

Chương 16

Có lẽ tốt nhất là nên hỏi ý kiến tôi trước khi lấy người tù của tôi ra khỏi phạm vi tài phán của tôi, ngài Ishido ạ", Toranaga nói.
"Tên rợ đó được nhốt trong nhà tù cùng với dân thường. Tất nhiên tôi nghĩ ngài không còn quan tâm gì đến hắn nữa, nếu không tôi đã không đưa hắn ra khỏi nơi đó. Dĩ nhiên tôi không bao giờ có ý can thiệp vào công việc riêng của ngài." Bề ngoài Ishido có vẻ bình tĩnh và cung kính nhưng trong bụng sôi lên sừng sục. Hắn biết đã rơi vào một vụ hớ hênh. Đúng lẽ hắn phải hỏi Toranaga trước.
Lễ độ thông thường đòi hỏi phải làm như vậy. Ngay dù cho điều đó chẳng có gì quan trọng, nếu hắn vẫn còn giữ tên rợ đó trong tay, trong quyền sinh sát của hắn, vẫn phải nộp nó ngay cho Toranaga khi nào Toranaga yêu cầu. Nếu người của hắn không bị chặn và giết chết một cách tàn nhẫn, rồi nếu gã Daimyo Yabu với một số người của Toranaga không tóm được tên rợ thì tình thế đã hoàn toàn khác hẳn. Hắn đã mất thể diện, trong khi toàn bộ chiến lược của hắn nhằm công khai hủy diệt Toranaga chính là đưa Toranaga vào đúng cái thế ấy.
"Một lần nữa, tôi xin tạ lỗi."
Toranaga liếc nhìn Hiromatsu, lời xin lỗi như tiếng nhạc du dương bên tai họ. Cả hai biết rõ, Ishido đã phải trả giá việc đó với biết bao máu chảy trong lòng. Họ đang ở trong đại sảnh tiếp tân. Theo sự thỏa thuận trước, hai đối thủ chỉ có năm vệ sĩ có mặt, những người đảm bảo tin cậy được. Số còn lại đợi ở bên ngoài. Yabu cũng đợi ở bên ngoài.
Còn tên rợ thì đã được tắm rửa sạch sẽ. Tốt, Toranaga thầm nghĩ, cảm thấy rất hài lòng với mình. Ông nghĩ về Yabu trong chốc lát rồi quyết định, hôm nay sẽ không gặp hắn ta mở sẽ tiếp tục vờn hắn như vờn cá. Bởi vậy ông yêu cầu Hiromatsu cho Yabu lui rồi lại quay về phía Ishido.
"Tất nhiên lời xin lỗi của ngài được chấp nhận. May là không xảy ra diều gì không hay."
"Vậy tôi có thể đưa tên rợ đó tới Thế tử... ngay khi nào nó có thể ra mắt được chứ?"
"Tôi sẽ cho đưa nó đến Thế tử khi nào tôi xong chuyện với nó."
"Tôi có thể biết được khi nào không? Thế tử đang đợi nó sáng nay."
"Chúng ta không nên quá lo nghĩ về chuyện này, ngài và tôi, neh? Yaemon mới bảy tuổi. Tôi tin chắc một đứa trẻ mới bảy tuổi có thể tự chủ được để mà kiên nhẫn. Neh? Kiên nhẫn là một dạng cửa kỷ luật và đòi hỏi phải có thực hành. Có phải không? Tôi sẽ đích thân giải thích sự hiểu lầm này. Tôi sẽ cho cậu bé học một bài bơi nữa sáng nay."
"Ơ?"
"Phải. Ngài cũng nên học bơi, ngài Ishido ạ. Đó là một sự tập luyện rất tốt và có thể hữu ích trong chiến tranh. Tất cả các Samurai của tôi đều biết bơi. Tôi đòi tất cả mọi người phải học nghệ thuật đó."
"Người của tôi để thời gian tập luyện bắn cung, đánh kiếm, cưỡi ngựa và bắn súng."
"Người của tôi còn học thêm thơ ca, cắm hoa, nghi thức trà đạo. Các Samurai cần phải thông thạo các nghệ thuật thời bình để có sức mạnh cho các môn võ nghệ chiến tranh!"
"Người của tôi phần nhiều rất giỏi các nghệ thuật đó rồi", Ishido nói. Hắn biết rõ chữ viết của mình chẳng ra gì và kiến thức rất hạn chế.
"Samurai sinh ra cho chiến tranh. Tôi rất am hiểu chiến tranh. Lúc này thế là đủ rồi. Cộng với sự phục tùng ý của Chúa công chúng ta."
"Bài học bơi của Yaemon vào giờ ngọ." Ngày cũng như đêm được chia làm sáu phần đều nhau. Ngày bắt đầu bằng giờ mão, từ năm đến bảy giờ sáng, rồi giờ thìn, từ bảy đến chín giờ sáng. Tiếp theo là các giờ mùi, thân, dậu, tuất, hợi, tí, sửu và chu kỳ đó kết thúc bằng giờ dần, từ ba đến năm giờ sáng.
"Ngài có muốn tham gia buổi học bơi không?"
"Cám ơn ngài, không ạ. Tôi đã già rồi không thay đổi được cách sống của mình nữa", Ishido lạnh nhạt trả lời.
"Tôi nghe nói có một viên đội trưởng của ngài được lệnh phải seppuku?"
"Tất nhiên. Đáng lẽ ra phải bắt được bọn cướp. Ít nhất cũng phải bắt được một tên. Như thế sẽ tìm ra được các tên khác."
"Tôi lấy làm kinh ngạc là cái đám thối tha lại có thể hoạt động gần lâu đài đến thế."
"Tôi rất đồng ý. Có lẽ tên ngoại bang có thể mô tả được chúng."
"Một tên man di thì biết gì?" Toranaga cười lớn.
"Còn về bọn cướp, chúng là Ronin, có phải không? Trong đám người của ngài có rất nhiều Ronin. Nếu điều tra trong bọn họ có thể có kết quả đấy. Neh?"
"Công việc điều tra đang được tiến hành gấp. Theo nhiều hướng." Ishido làm ngơ trước nụ cười nhạo bóng gió về Ronin, bọn vô chủ, những Samurai đánh thuê hầu như bị xã hội ruồng bỏ đã từng ùn ùn kéo đến hàng ngàn vạn dưới lá cờ của Thế tử khi Ishido thì thầm ở bên ngoài rằng hắn, nhân danh Thế tử và Thái hậu, mẹ Thế tử, sẽ chấp nhận lòng trung thành của chúng, sẽ - thật không thể tưởng tượng được - tha thứ và quên đi những quá khứ và hành động sai lầm của chúng và với thời gian, sẽ trả công lòng trung thành của chúng với sự hào phóng của một Taiko.
Ishido biết đó là một nước cờ rất giỏi. Nó đem lại cho hắn đám đông rất lớn những Samurai có võ nghệ để sử dụng. Nó bảo đảm lòng trung thành, vì các Ronin biết chúng không bao giờ còn có được một cơ hội như thế; nó đưa lại cho phe của Ishido những kẻ uất hận, nhiều người trong số đó đã trở thành Ronin vì những cuộc chiếm đoạt của Toranaga và những đồng minh của ông. Và sau hết, nó xóa bỏ được một nguy cơ đối với vương quốc - việc gia tăng số kẻ cướp, vì hầu như cách sống duy nhất có thể chịu được mở ra trước mặt một Samurai không gặp may đến nỗi phải trở thành Ronin là làm thầy tu hoặc kẻ cướp.
"Có nhiều điều tôi không hiểu về cuộc phục kích này", Ishido nói, giọng hằn học." Vâng, chẳng hạn tại sao bọn cướp lại phải tìm cách bắt tên ngoại bang đó để lấy tiền chuộc? Trong thành phố có vô khối người khác, quan trọng hơn nó rất nhiều. Phải chăng tên cướp đã nói vậy? Nó muốn tiền chuộc. Tiền chuộc của ai? Giá trị của tên man rợ đó là bao nhiêu? Chẳng có giá trị gì hết. và làm sao chúng biết được tên man rợ đó ở chỗ nào? Chỉ mãi hôm qua tôi mới ra lệnh đưa nó tới cho Thế tử, nghĩ rằng nó sẽ mua vui cho Thế tử. Lạ thật!"
"Phải, rất lạ", Toranaga nói.
"Rồi lại còn ngẫu nhiên ngài Yabu có mặt gần đó với một số người của ngài, một số người của tôi vào đúng thời điểm ấy. Rất lạ!"
"Phải. Dĩ nhiên Yabu phải có mặt ở đấy vì tôi đã cho gọi. Còn người của ngài có ở đấy vì chúng ta đã thỏa thuận với nhau - theo gợi ý của ngài rằng đó là một chính sách hay là một cách để hàn gắn sự rạn nứt giữa chúng ta, tức là cho người của ngài đi kèm người của tôi bất cứ đâu trong khi tôi đến viếng thăm chính thức lúc này."
"Thật là lạ lùng là bọn cướp có đủ dũng khí và tổ chức tốt để giết chết mười người không phải đánh nhau gì cả, lại hành động như bọn Triều Tiên khi người của ta đến. Hai bên đều ngang sức nhau. Tại sao bọn cướp không đánh lại hoặc lôi tên man rợ vào núi ngay lập tức mà ngu xuẩn ở lại giữa con đường chính dẫn tới lâu đài? Lạ lùng thật!"
"Rất lạ lùng. Chắc chắn ngày mai, tôi sẽ tăng số vệ sĩ lên gấp đôi khi đi săn bắt chim ưng. Phòng xa nhỡ có chuyện gì xảy ra... Thật đáng ngại là bọn cướp lại đến gần lâu đài như vậy. Phải, có lẽ ngài cũng muốn đi săn chăng? Thả một con chim ưng của ngài thi với một con của tôi? Tôi sẽ đi săn ở trên núi phía Bắc."
"Cảm ơn ngài, tôi không đi. Ngày mai tôi bận. Có lẽ ngày kia được chăng? Tôi đã ra lệnh cho hai mươi ngàn người càn quét tất cả các cánh rừng xung quanh Osaka. Trong mười ngày nữa, sẽ không còn một tên cướp nào trong vòng hai mươi dặm. Tôi có thể hứa chắc với ngài điều đó."
Toranaga biết Ishido đang dùng bọn cướp làm cái cớ để tăng thêm số quân của ông ta trong vùng này. Nếu hắn nói hai mươi thì có nghĩa là năm mươi. Cái nút thòng lọng đang siết lại, Toranaga tự nhủ. Tại sao lại sớm thế? Có sự phản bội mới nào xảy ra chăng? Tại sao Ishido lại tự tin đến như thế?
"Tốt. Vậy là ngày kia nhé, ngài Ishido. Ngài sẽ ra lệnh cho quân lính của ngài tránh xa khu vực săn bắn của tôi chứ? Tôi không muốn trò vui của tôi bị quấy rối", ông lạnh lùng nói thêm.
"Tất nhiên rồi. Thế còn tên rợ kia thì sao?"
"Nó là, và luôn luôn là sở hữu của tôi. Cả chiếc tàu của nó nữa. Nhưng khi nào tôi xong câu chuyện. với nó, ngài có thể lấy nó được. Rồi sau đó ngài có thể đưa ra pháp trường xử tử nếu ngài muốn."
"Cảm ơn. Xin vâng, tôi sẽ làm như thế." Ishido gập cái quạt lại đút vào ống tay áo.
"Nó chẳng quan trọng gì. Điều quan trọng và là lý do khiến tôi tới gặp ngài là... Ồ, nhân đây, tôi có nghe nói mẫu thân tôi đang viếng thăm tu viện Johji."
"Ồ, tôi nghĩ mùa này đã hơi muộn để ngắm hoa anh đào. Chắc chắn bây giờ hoa đã qua thời kỳ nở đẹp nhất lâu rồi phải không?"
"Vâng. Nhưng nếu mẫu thân tôi muốn ngắm hoa thì cũng được chứ sao? Với người lớn tuổi thì chẳng thế nào biết được, họ có những ý nghĩ riêng của họ và nhìn đời một cách khác, neh? Nhưng sức khỏe của mẫu thân tôi không tốt. Tôi rất lo cho bà. Bà cần phải giữ gìn cẩn thận. Bà dễ bị cảm lạnh lắm."
"Mẫu thân tôi cũng vậy. Cần theo dõi sức khỏe của người già." Toranaga thầm ghi nhớ phải viết thư ngay để nhắc nhở tu viện trường chăm lo cẩn thận sức khỏe của bà cụ. Nếu bà chết tại tu viện thì tác động sẽ ghê gớm. Ông sẽ bị nhục trước cả nước. Tất cả các Daimyo sẽ hiểu ra rằng, trong ván cờ giành giật quyền lực, ông đã lợi dụng một bà cụ già yếu ớt, mẹ kẻ thù của ông, làm một con tốt và đã không làm tròn trách nhiệm đối với bà già. Bắt giữ một con tin, thật ra là một thủ đoạn nguy hiểm.
Ishido đã gần phát điên lên vì giận dữ khi biết tin bà mẹ rất được kính trọng của ông ta đang ở tại pháo đài của Toranaga tại Nagoya.
Nhiều cái đầu đã rơi. Ông ta lập tức vạch kế hoạch để hủy diệt Toranaga và trịnh trọng hạ quyết tâm bao vây Nagoya, tiêu diệt tên Daimyo Kazamaki - kẻ đã rõ ràng được giao trách nhiệm trông nom bà ta - ngay khi chiến sự bắt đầu.
Cuối cùng một bức thư riêng đã được gửi cho tu viện trưởng qua những người trung gian, nói rằng nếu bà ta không được ra khỏi tu viện an toàn trong vòng hai mươi bốn tiếng đồng hồ thì Naga, đứa con trai duy nhất của Toranaga trong tầm với tới được và bất kể phụ nữ nào của Toranaga mà ông ta bắt được, đều sẽ phải chịu nỗi bất hạnh là tỉnh dậy tại làng hủi, được bọn hủi cho ăn, cho uống và được lũ điếm của bọn hủi phục vụ. Ishido biết trong khi mẹ ông ta còn trong tay Toranaga thì ông ta phải hành động dè dặt thận trọng.
Nhưng ông ta đã nói rõ nếu họ không thả bà cụ ra, ông ta sẽ nổi lửa thiêu cháy cả vương quốc này.
"Mẫu thân ngài sức khỏe ra sao, thưa ngài Toranaga?" ông ta lễ phép hỏi.
"Rất khỏe, cám ơn ngài", Toranaga cho phép mềm vui sướng bộc lộ ra ngoài, vì ông nghĩ đến mẹ Ishido và cũng vì biết sự cuồng giận bất lực của ông ta.
"Mẫu thân tôi rất khỏe mạnh ở cái tuổi bảy mươi tư. Tôi chỉ mong sao được khỏe như bà cụ khi tôi đến tuổi ấy."
Mày năm mươi tám, Toranaga, nhưng mày sẽ không bao giờ sống tới tuổi năm mươi chín đâu, Ishido tự hứa với mình.
"Xin ngài cho tôi gửi lời chúc mừng tốt đẹp nhất tới lão thái, chúc lão thái sống mãi mãi hạnh phúc." Ishiô cúi chào rất lễ phép, rồi không kìm nổi sự vui thích đang dâng lên trong lòng, nói thêm:
"Ồ, vâng, vấn đề quan trọng khiến tôi muốn gặp ngài là cuộc họp chính thức cuối cùng của các vị Nhiếp chính đã bị hoãn lại. Chúng ta sẽ không họp tối nay, vào lúc mặt trời lặn."
Toranaga vẫn giữ nụ cười trên môi, nhưng bên trong choáng váng."Ồ, tại sao?"
"Đại nhân Kiyama ốm. Đại nhân Sugiyama và Đại nhân Onoshi đã đồng ý hoãn họp. Tôi cũng vậy. Một vài ngày chẳng quan trọng gì, có phải không ạ, đối với những vấn đề quan trọng như vậy?"
"Chúng ta có thể họp không có Đại nhân Kiyama."
"Chúng tôi đã thỏa thuận không nên làm như vậy." Mắt Ishido lấp lánh vẻ giễu cợt.
"Chính thức rồi ư?"
"Đây là bốn con dấu của chúng tôi."
Toranaga giận sôi lên. Bất cứ sự trì hoãn nào cũng gây nguy hại không lường được cho ông. Liệu có thể đem mẹ của Ishido ra mặc cả đổi lấy một cuộc họp ngay tức khắc không? Không được, bởi vì sẽ phải mất quá nhiều thì giờ để đưa lệnh đi rồi trở về và ông đã che giấu một lợi thế rất lớn mà chẳng được gì.
"Thế bao giờ sẽ họp?"
"Theo tôi hiểu thì Đại nhân Kiyama có lẽ sẽ khỏe vào ngày mai hoặc ngày kia."
"Tốt. Tôi sẽ cử thầy thuốc riêng của tôi tới thăm ông ấy?"
"Tôi tin rằng ông ấy sẽ rất cảm ơn ngài. Nhưng thầy thuốc của ông ấy đã cấm không được tiếp khách. Bệnh có thể là lây chăng, neh?"
"Bệnh gì vậy?"
"Tôi cũng không biết nữa, thưa Đại nhân. Tôi chỉ nghe nói thế."
"Thầy thuốc có phải là một tên rợ không?"
"Vâng. Tôi biết đó là thầy thuốc của những người Kito giáo. Một thầy thuốc - tu sĩ Kito giáo cho một Daimyo Kito giáo. Thầy thuốc của chúng ta không giỏi để chữa chạy cho một Daimyo... quan trọng đến như thế." Ishido nói với một nụ cười giễu cợt.
Nỗi lo của Toranaga càng tăng thêm. Nếu thầy thuốc là người Nhật thì ông có thể làm được nhiều chuyện. Nhưng với một tên thầy thuốc Kito giáo - nhất định là một tu sĩ dòng Temple không khác được - thì chống lại một tên trong bọn chúng, thậm chí chỉ can thiệp vào việc của nó, cũng đã có thể gây thù hằn với tất cả các Daimyo Kito giáo. Đó là điều không thể liều được. Ông biết tình bạn với Tsukku-san cũng không thể giúp ông chống lại các Daimyo Kito giáo, Onoshi hay Kiyama.
Lợi ích của những người Kito giáo là đoàn kết lại với nhau. Chẳng bao lâu nữa ông sẽ phải nhích lại gần họ, bọn tu sĩ man rợ ấy, để tìm cách dàn xếp, tìm ra cái giá phải trả cho sự cộng tác của họ. Nếu Ishido quả thật có Onoshi và Kiyama đứng cùng phía - mà tất cả các Daimyo Kito giáo sẽ đi theo hai tên này, nếu chúng hành động phối hợp với nhau - thì quả thật, ông nghĩ mình sẽ bị cô lập. Vậy con đường duy nhất còn lại cho ta là.
"Bầu trời đỏ thắm."
"Tôi sẽ đến thăm Đại nhân Kiyama ngày kia", ông nói, vạch ra một giới hạn.
"Nhưng ngộ lây bệnh thì sao? Tôi sẽ không bao giờ tự tha thứ cho mình nếu có chuyện gì xảy ra với ngài trong thời gian ngài ở Osaka đâu, thưa Đại nhân. Ngài là khách của chúng tôi, tôi có nhiệm vụ chăm lo. Tôi cần phải nhấn mạnh là ngài không nên đi."
"Ngài có thể yên tâm, thưa ông Ishido, cái bệnh lây vật đổ được tôi chưa xuất hiện trên đời này, neh? Ngài đã quên lời tiên đoán của thầy bói." Khi đoàn sứ thần Trung Hoa tới gặp Taiko sáu năm trước đây để tìm cách dàn xếp cuộc chiến tranh Nhật Bản - Triều Tiên - Trung Hoa, trong số họ có một nhà chiêm tinh nổi tiếng. Người Trung Hoa này đã tiên đoán nhiều điều sau đó đều đúng cả. Tại một bữa yến tiệc long trọng, cực kỳ xa hoa của Taiko, Taiko đã yêu cầu ông thầy bói tiên đoán cái chết của một số cố vấn của ông.
Nhà chiêm tinh học đã nói Toranaga sẽ chết vì kiếm vào tuổi trung niên. Ishido, viên tướng lừng danh đã chinh phục Triều Tiên - người Trung Hoa gọi là Chosen - thì sẽ chết già, không vì bệnh tật gì cả, hai chân vẫn đứng vững, một con người lừng lẫy nhất trong thời của ông. Còn bản thân Taiko thì sẽ chết già trên giường của mình, được mọi người nể vì, tôn kính, để lại một người con trai khỏe mạnh để nối nghiệp ông ta.
Điều đó làm Taiko rất vui lòng, ông ta khi ấy vẫn chưa có con, cho nên đã quyết định để cho phái bộ trở về Trung Hoa chứ không giết họ như đã dự định, vì những sự hỗn xược của họ trước đây. Thiên Hoàng Trung Hoa thông qua sứ thần của mình, đòi không thương lượng lập lại hòa bình như Taiko chờ đợi mà chỉ đề nghị sẽ.
"Phong cho làm vua xứ Wa", người Trung Hoa vẫn gọi Nhật Bản bằng cái tên đó. Vậy là Taiko đã cho phép họ sống sót trở về, chứ không phải nằm trong những cái hộp rất nhỏ đã được chuẩn bị sẵn và tiếp tục phát động chiến tranh chống Triều Tiên và Trung Hoa.
"Không, thưa Đại nhân Toranaga, tôi không quên", Ishido nói. Hắn nhớ rất rõ.
"Nhưng lây bệnh có thể rất khó chịu. Tại sao lại chuốc lấy sự khó chịu? Ngài có thể lây bệnh giang mai như con trai ngài là Noboru... xin lỗi hoặc trở thành hủi như Đại nhân Onoshi. Ông ta còn trẻ, nhưng rất đau đớn. Ồ, vâng, rất đau đớn."
Trong giây lát, Toranaga bỗng lúng túng. Ông biết quá rõ những tai hại của hai căn bệnh đó. Noboru, con trai cả còn sống của ông, đã mắc bệnh giang mai Trung Hoa khi mới mười bảy tuổi, mười năm trước đây - và mọi thứ thuốc của các ông thầy Nhật Bản, Trung Hoa, Triều Tiên và Kito giáo đã không làm thuyên giảm được căn bệnh. Nó đã làm cho Noboru xấu xí đi nhưng không chết. Nếu ta mà nắm quyền lực, Toranaga tự hứa với mình, có lẽ ta sẽ dập tắt ngay cái bệnh này. Có thật bệnh này do phụ nữ mà ra không?
Phụ nữ mắc bệnh như thế nào? Chữa chạy thế nào? Tội nghiệp Noboru, Toranaga thầm nghĩ. Nếu không có cái bệnh giang mai ấy, ngươi sẽ là Thế tử của ta, vì ngươi là một quân nhân xuất sắc, một nhà cai trị giỏi hơn Sudara, và rất khôn ngoan. Hẳn là ngươi đã làm nhiều điều tệ hại ở kiếp trước cho nên mới phải chịu nhiều tai ương ở kiếp này.
"Mô Phật, tôi không cầu mong cho ai mắc phải một trong hai thứ bệnh này", ông nói.
"Tôi rất đồng ý", Ishido nói, nhưng trong bụng tin rằng Toranaga mong muốn cho ông ta mắc cả hai bệnh đó nếu có thể được. Hắn cúi chào lần nữa rồi đi ra.
Toranaga phá tan sự im lặng:
"Thế nào?"
Hiromatsu nói:
"Ngài ở lại hay ra đi lúc này cũng vậy thôi... Vẫn là tai họa bởi vì bây giờ ngài đã bị phản bội và bị cô lập, thưa Đại nhân. Nếu ngài ở lại chờ cuộc họp - một tuần nữa cũng chưa họp đâu - Ishido sẽ huy động xong tất cả các binh đoàn của hắn vây quanh Osaka và ngài sẽ không bao giờ thoát khỏi được đây, bất kể có chuyện gì xảy ra với Đức bà Ochiba ở Yedo và rõ ràng Ishido đã quyết định bỏ liều bà ta để giết ngài.
Hiển nhiên ngài đã bị phản và bốn vị Nhiếp chính sẽ ra một quyết định chống lại ngài. Bỏ phiếu bốn chống lại một tại Hội đồng sẽ buộc tội ngài. Nếu ngài bỏ đi bây giờ, họ vẫn cứ phát ra bất cứ lệnh gì Ishido muốn. Ngài sẽ buộc phải tuân theo một quyết định bốn chống một. Ngài đã từng thề như thế rồi. Ngài không thể làm ngược lại lời thề long trọng của ngài được, với tư cách một Nhiếp chính."
"Đúng vậy."
Im lặng kéo dài.
Hiromatsu đợi, mỗi lúc một lo lắng thêm.
"Ngài định làm gì bây giờ?"
"Trước hết, ta sẽ đi bơi đã", Toranaga nói với một thái độ vui vẻ đáng ngạc nhiên.
"Rồi ta sẽ gặp tên ngoại bang man rợ."
Người đàn bà thanh thản dạo bước qua hoa viên riêng của Toranaga trong lâu đài, tới một túp lều tranh nhỏ đặt rất khéo trong một bụi cây shích. Kimono và obi bằng lụa của nàng hết sức giản dị nhưng lại cực kỳ thanh nhã, phải bàn tay những nghệ nhân nổi tiếng nhất của Trung Hoa mới làm ra được. Tóc nàng búi theo kiểu Kyoto mới nhất, búi tóc rất cao, cài trâm bạc dài. Một chiếc dù màu sắc sặc sỡ che làn da đẹp của nàng. Tầm vóc nhỏ bé, chỉ năm bộ nhưng cân đối một cách hoàn hảo. Cổ đeo một dây chuyền vàng mảnh với một cây thánh giá nhỏ cũng bằng vàng, lủng lẳng ở đầu dây.
Kiri đang đợi ở thềm túp lều. Bà nặng nề ngồi trong bóng râm, mông đít phè cả ra ngoài đệm và ngắm nhìn người đàn bà kia đi tới theo những hòn đá xếp thành bậc rất cẩn thận trong đám rêu đến mức tưởng chừng như chúng mọc lên từ đám rêu đó.
"Toda Mariko-san, bà đẹp hơn bao giờ hết, ngày càng trẻ ra", Kiri nói, không hề có ý ghen tị, và cúi chào đáp lễ.
"Ước gì điều đó là thật, Kiritsubo-san", Mariko nói và mỉm cười. Nàng quỳ lên một chiếc đệm, bất giác sửa lại nếp váy thành một hình tao nhã.
"Đúng đấy. Chúng ta gặp nhau lần cuối cùng bao giờ nhỉ? Hai... ba năm trước đây có phải không? Bà chẳng thay đổi chút xíu nào suốt hai mươi năm qua. Từ lần đầu tiên chúng ta gặp nhau có lẽ đã gần hai mươi năm còn gì. Bà còn nhớ không? Hôm ấy tại một bữa tiệc của Đại nhân Goroda. Bà mới mười bốn tuổi, vừa lấy chồng và rất vui."
"Và khiếp sợ."
"Không đâu, không phải. Bà không khiếp sợ."
"Mới cách đây mười sáu năm thôi, không phải hai mươi đâu, thưa Kiritsubo-san. Vâng, tôi còn nhớ rất rõ." Quá rõ nữa là khác, nàng thầm nghĩ, trong lòng chán nản. Đó là cái ngày anh ta thì thầm cho ta biết là anh ta tin rằng phụ thân tôn kính của chúng ta sắp được trả thù với lãnh chúa của người là tên độc tài Goroda, rằng anh ta sẽ giết hắn. Lãnh chúa của phụ thân ta!
Ồ phải, Kiri-san, ta nhớ cái ngày hôm ấy, cái năm ấy và cái giờ ấy. Đó là khởi đầu của mọi sự khủng khiếp. Ta chưa bao giờ thừa nhận với một ai nhưng ta biết rõ cái gì sẽ xảy ra trước khi nó xảy ra. Ta đã không hề báo cho chồng ta hay Hiromatsu, cha chồng ta vì biết trước, cả hai đều là chư hầu trung thành của tên độc tài, rằng sự phản bội đã được một trong những viên tướng giỏi nhất của hắn hoạch định sẵn. Tệ hơn nữa, ta không hề báo cho Goroda, lãnh chúa của ta biết.
Như thế là ta đã không làm tròn bổn phận của ta với lãnh chúa, với chồng ta với gia đình chồng ta mà do cuộc hôn nhân, đó là hai gia đình duy nhất của ta. Ôi, tâu lạy Đức Mẹ Đồng Trinh, hãy tha thứ tội lỗi của con, hãy giúp con rửa sạch tâm hồn. Con im lặng để bảo vệ người cha yêu quý của con đã làm mất thanh danh của một ngàn năm. Ôi lạy Chúa, ôi lạy Đức Jesus ở Nadarết, hãy cứu đứa con tội lỗi này khỏi kiếp đọa đầy vĩnh cửu nơi địa ngục...
"Đúng là mười sáu năm trước đây." Mariko tươi cười nói.
"Năm ấy tôi đương có mang đứa con của Đại nhân Toranaga." Kiri nói và thầm nghĩ, nếu Đại nhân Goroda không bị cha ngươi phản bội và giết chết bỉ ổi như thế thì Đại nhân Toranaga, của ta sẽ không bao giờ phải đánh trận Nagakuđê, ta sẽ không bao giờ bị cảm lạnh ở đó và sẽ không bao giờ bị sảy thai. Có lẽ thế, bà tự nhủ. Và cũng có lẽ không phải thế. Đó chỉ là karma thôi, karma của ta, bất luận là chuyện gì xảy ra, neh?
"Ôi, Mariko san", bà nói không hề có ý gì.
"Đã lâu quá rồi, cứ như là ở một kiếp nào khác. Nhưng bà quả là trẻ mãi, không bao giờ già. Tại sao tôi không có được gương mặt và mái tóc đẹp như bà? Và không có dáng đi tha thướt như thế?"
Kiri cười to.
"Câu trả lời rất đơn giản: bởi vì tôi ăn nhiều quá!"
"Cái đó có gì quan trọng đâu? Bà tắm mình trong ân huệ của Đại nhân Toranaga, neh? Cho nên bà được đáp ứng mọi mong muốn. Bà hiểu biết, đầm ấm, đầy đủ và hạnh phúc trong lòng."
"Tôi ao ước được mảnh mai mà vẫn ăn được và được sủng ái", Kiri nói.
"Nhưng còn bà? Bà không hạnh phúc sao?"
"Tôi chỉ là một công cụ của Đại nhân Buntaro để vui chơi thôi. Nếu Đại nhân chồng tôi sung sướng thì tất nhiên tôi cũng sung sướng. Niềm vui của người là niềm vui của tôi. Đối với bà cũng vậy." Mariko nói.
"Vâng. Nhưng không hẳn như vậy", Kiri phe phẩy cái quạt mặt lụa vàng lấp lánh ánh mặt trời xế chiều. Ta rất mừng ta không phải là ngươi, Mariko, dù cho ngươi thông minh dũng cảm và hiểu biết. Không! Ta không thể nào chịu được cảnh phải lấy cái gã đáng căm ghét, xấu xí kiêu ngạo và hung tợn kia, dù chỉ là một ngày, chứ đừng nói gì đến mười bảy năm. Nó thật trái ngược với cha nó là Đại nhân Hiromatsu.
Đấy mới đúng là một con người tuyệt vời. Còn Buntaro? Làm sao những người cha như thế lại có những đứa con trai khủng khiếp như thế? Ta cầu mong có được một đứa con trai, ôi ta khát khao mong ước! Nhưng ngươi, Mariko, làm sao ngươi có thể chịu đựng được sự ngược đãi như thế suốt bấy nhiêu năm? Làm sao ngươi chịu đựng được tất cả những bi kịch đó của ngươi? Thật khó tưởng tướng được là không hề thấy bóng dáng những cái đó trên gương mặt ngươi hoặc trong tâm hồn ngươi.
"Bà là một phụ nữ kỳ lạ. Toda Buntaro Mariko-san."
"Cám ơn bà, thưa bà Kiritsubo Toshiko-san. Ôi, Kiri-san, được gặp bà thật là sung sướng quá!"
"Thế nào, con trai bà ra sao?"
"Đẹp…đẹp…đẹp lắm. Bây giờ Sarijo đã mười lăm rồi bà có thể ngờ được không? Cao lớn, khỏe mạnh, hệt cha nó và Đại nhân Hiromatsu đã tặng Sarijo lãnh địa riêng của người và nó... bà có biết nó sắp lấy vợ chưa?"
"Chưa. Lấy ai thế?"
"Cô bé cháu gái Đại nhân Kiyama. Đại nhân Toranaga đã thu xếp việc này rất giỏi. Thật là một cuộc hôn nhân rất đẹp cho gia đình chúng tôi. Tôi chỉ mong ước bản thân cô gái nên... nên tỏ ra quan tâm hơn đối với con trai tôi đoan trang hơn. Bà có biết...", Mariko cười to, hơi có ý bẽn lẽn." Đấy, tôi nói năng cứ như bất cứ bà mẹ chồng nào xưa nay. Nhưng tôi tin bà sẽ đồng ý, cô ta chưa thật sự được rèn giũa."
"Bà còn nhiều thời gian để làm việc đó."
"Ồ, tôi hi vọng như thế. Vâng. Tôi được cái may mắn là không có mẹ chồng. Nếu có thì quả là tôi không biết làm gì."
"Bà sẽ làm mẹ chồng say mê vui thích, bà sẽ uốn nắn cô ta như uốn nắn dạy dỗ mọi người trong nhà bà. Neh?"
"Vâng, ước gì điều đó cũng đúng." Bàn tay Mariko bất động trên lòng. Nàng nhìn một con chuồn chuồn chúa đậu rồi lại bay vút đi.
"Chồng tôi ra lệnh cho tôi đến đây. Đại nhân Toranaga muốn gặp tôi có phải không ạ?"
"Vâng. Đại nhân muốn bà làm thông ngôn cho Đại nhân."
Mariko sửng sốt:
"Với ai?"
"Với cái tên man di mới tới."
"Ồ, nhưng sao không nhờ cha Tsukku-san? Cha ốm hay sao?"
"Không." Kiri nghịch chiếc quạt." Tôi cho rằng chúng ta chằng thể nào biết được tại sao Đại nhân Toranaga lại muốn có bà ở đây chứ không phải ông tu sĩ, như trong cuộc gặp đầu tiên. Mariko-san này, tại sao chúng ta lại phải giữ gìn tất cả tiền bạc, thanh toán mọi hóa đơn, dạy dỗ mọi kẻ ăn người ở, mua tất cả thực phẩm và mọi thứ vật dụng trong nhà? Thậm chí nhiều khi mua cả quần áo cho các Đại nhân của chúng ta nữa - nhưng thật ra họ chẳng nói gì cho chúng ta biết hết, có phải không?"
"Có lẽ đó là cái mà chúng ta phải dùng trực giác để hiểu."
"Có thể." Mắt Kiri nhìn thẳng và thân thiện.
"Nhưng tôi nghĩ đây có lẽ là một việc hết sức riêng tư. Cho nên có lẽ bà sẽ phải thề trước Đức Chúa Trời Kito giáo của bà là không được tiết lộ bất cứ cái gì về cuộc gặp gỡ đó. Với bất cứ ai."
Ánh mặt trời như bỗng mất đi một phần sức ấm nóng.
"Tất nhiên rồi", Mariko nói, trong bụng băn khoăn không yên. Nàng hiểu rất rõ Kiri muốn nói nàng không được nói gì hết với chồng mình hoặc bố chồng hoặc với cha cố khi xưng tội. Do chồng nàng ra lệnh cho nàng tới đây, rõ ràng theo yêu cầu của Đại nhân Toranaga, bổn phận của nàng đối với Lãnh chúa Toranaga đứng trên bổn phận của nàng đối với chồng, cho nên nàng có thể giữ kín không cho chồng biết.
Nhưng còn đối với cha xưng tội? Nàng không nói gì với ông ta có được không? Và tại sao lại nàng làm thông ngôn chứ không phải cha Tsukku-san? Nàng hiểu một lần nữa, trái với ý muốn, nàng lại bị lôi kéo vào cái thứ mưu mô chính trị đã từng làm đời nàng điêu đứng, và một lần nữa lại ước ao giá như gia đình mình không phải dòng dõi Fujimoto lâu đời, giá như nàng không sinh ra với năng khiếu về ngoại ngữ đã cho phép nàng học được các thứ tiếng Portugal và Latin hầu như không sao hiểu nổi, và giá như nàng không sinh ra ở đời này.
Nhưng, nàng nghĩ, như thế thì mình sẽ không bao giờ thấy con trai mình, cũng không bao giờ hiểu biết về Chúa Hài đồng, hoặc chân lý của Người, hoặc về cuộc sống vĩnh hằng.
"Đó là karma của mi, Mariko ạ", nàng buồn rầu tự nhủ. Chỉ là karma thôi.
"Tốt lắm, thưa Kiri-san." Rồi nàng nói thêm, như có linh tính một điều không hay.
"Tôi xin thề trước Đức Chúa Trời của tôi rằng tôi sẽ không tiết lộ bất cứ cái gì được nói ra ở đây ngày hôm nay hoặc vào bất cứ lúc nào tôi làm thông ngôn cho Chúa thượng của tôi."
"Tôi cũng nghĩ bà có thể phải loại bỏ tình cảm của mình để dịch cho chính xác. Cái tên man rợ mới này rất kỳ quặc và nói những điều lạ lùng. Tôi tin chắc Đại nhân của tôi chọn bà, tuy có nhiều khả năng khác, là có những lý do đặc biệt."
"Tôi là tôi tớ của Đại nhân Toranaga và sẽ làm như Đại nhân muốn. Đại nhân không phải lo ngại gì hết về lòng trung thành của tôi."
"Không ai nghi ngờ điều đó bao giờ. Tôi không có ý gì khác đâu."
Trời bỗng mưa, một cơn mưa xuân, các cánh hoa, rêu và lá cây lốm đốm những giọt nước, rồi mưa tạnh ngay, để quang cảnh lại càng đẹp thêm.
"Tôi muốn xin một đặc ân, Mariko-san. Bà vui lòng giấu cây thánh giá của bà vào dưới kimono có được không?"
Ngón tay Mariko vụt giơ lên nắm lấy cây thánh giá như để bảo vệ.
"Sao? Đại nhân Toranaga không bao giờ phản đối việc tôi cải đạo kia mà, cả Đại nhân Hiromatsu, tôi tưởng cả dòng họ của chúng tôi cũng vậy! Chồng tôi… chồng tôi cho phép tôi giữ và đeo nó."
"Đúng vậy. Nhưng cứ thấy thánh giá là cái tên man di ấy lại lên cơn điên khùng và Đại nhân Toranaga không muốn nó phát điên phát rồ. Người ta muốn nó bình tĩnh."
Blackthorne chưa bao giờ trông thấy ai bé nhỏ như thế.
"Konnichi wa", anh nói.
"Konnichi, Toranaga Sama." Anh cúi chào như một triều thần, gật đầu với đứa trẻ đang quỳ, mắt thao láo mở to bên cạnh Toranaga, và với người đàn bà to béo đằng sau ông ta. Họ đều ngồi cả trên hàng hiên xung quanh túp lều nhỏ. Lều chỉ có một gian phòng nhỏ, với những bức rèm thô kệch, rầm nhà đẽo bằng rìu, mái lợp tranh và đằng sau là khu nhà bếp.
Lều dựng trên những chồng gỗ xếp ngay ngắn, cách mặt đất là một thảm cát trắng tinh chừng một bộ. Đây là nhà trà dùng cho nghi thức trà đạo và được xây cất rất tốn kém bằng những vật liệu hiếm quý chỉ để dùng vào mỗi một việc đó thôi, tuy đôi khi, vì những túp lều đó biệt lập, trong các bụi cây, cho nên chúng còn được sử dụng cho những cuộc hẹn hò và những cuộc trò chuyện riêng tư.
Blackthorne vén kimono ngồi lên chiếc đệm đặt trên cát bên dưới, trước mặt họ:
"Gomen nasai, Toranaga Sama, nihon go ga hanase masen. Tsuyaku go imasu ka?"
"Thưa senhor, tôi là người thông ngôn cho ông", Mariko nói ngay, bằng tiếng Portugal hầu như hoàn hảo.
"Nhưng ông nói tiếng Nhật được ư?"
"Không, thưa senhorita , chỉ nói được vài chữ, vài câu thôi", Blackthorne đáp, sửng sốt. Anh chờ đợi cha Alvito làm thông ngôn và Toranaga sẽ có các Samurai đi theo và có lẽ có cả Yabu nữa. Nhưng chẳng có tên Samurai nào ở bên, tuy có nhiều tên vây quanh khu vườn.
- Giải thích, nhân xưng cô, tiểu thư là xưng hô với phụ nữ chưa chồng. Còn bà, phu nhân là xưng hô với phụ nữ đã có chồng. Hết giải thích.
"Đại nhân Toranaga của tôi hỏi rằng... Nhưng trước hết, có lẽ tôi phải hỏi xem ông có thích nói tiếng Latin không?"
"Tiếng nào cũng được, xin tùy bà, thưa senhorita." Như bất cứ con người có giáo dục nào, Blackthorne có thể viết đọc và nói tiếng Latin vì tiếng này là ngôn ngữ duy nhất của việc học hành trên khắp thế giới văn minh. Người đàn bà này là ai? Bà ta học được tiếng Portugal hoàn hảo như thế ở đâu? Lại cả tiếng Latin nữa? Còn học ở đâu nữa ngoài đám dòng Temple, anh nghĩ. Tại một trong những trường học của chúng. Ồ, chúng quả là khôn khéo! Việc đầu tiên chúng làm là xây dựng một trường học!
Inhatiut LoaYola lập ra Hội của Jesus mới cách đây có bảy mươi năm thế mà bây giờ trường học của chúng, những trường học tốt nhất trong thế giới Kito giáo, đã rải rác khắp thế giới và ảnh hưởng của chúng dựng ông vua này lên, hạ ông vua kia xuống, chúng được Giáo hoàng tin nghe. Chúng đã chặn đứng trào lưu Tân giáo và bây giờ đang giành lại những vùng đất đai rộng lớn cho giáo hội của chúng.
"Vậy ta nói tiếng Portugal", Mariko nói.
"Chúa công tôi muốn biết ông học được ở đâu.
"Vài câu vài chữ" tiếng Nhật đó?"
"Thưa senhorita, trong ngục có một thầy tu, một tu sĩ dòng Francis. Ông ta đã dạy tôi. Những từ như.
"Thức ăn, bạn, tắm, đi lại, đúng, sai, đây, kia, tôi, ông, xin mời, cảm ơn, muốn, đừng, không" vân vân. Tiếc thay mới chỉ bắt đầu được tí chút. Xin bà nói với Đại nhân Toranaga rằng bây giờ tôi đã sẵn sàng hơn để trả lời các câu hỏi của ngài, sẵn sàng giúp đỡ và quả thật hài lòng không ít là đã được ra khỏi ngục. Tôi xin cảm ơn Đại nhân về điều đó."
Blackthorne chăm chú theo dõi trong khi người phụ nữ quay lại nói với Toranaga. Anh biết lẽ ra anh nên nói giản dị hơn, bằng những câu ngắn và phải thận trọng bởi vì, không như ông tu sĩ đã phiên dịch đồng thời lời anh nói, người phụ nữ này đợi cho anh nói xong rồi mới tóm lược hoặc diễn giải lại những điều đã nói...
Vấn đề thông thường của tất cả các thông ngôn, trừ những tay cừ khôi nhất, tuy rằng ngay cả những người này, cũng như với ông tu sĩ dòng Temple, thường để cho cá tính của mình ảnh hưởng tới những điều đã nói ra, một cách cố ý hoặc không cố ý. Được tắm rồi xoa bóp, được ăn và ngủ hai tiếng đồng hồ, anh tỉnh táo lại rất nhiều.
Những người phục vụ tắm, tất cả đều là những phụ nữ to lớn, khỏe mạnh, đã đấm lưng cho anh, gội đầu cho anh, tết tóc thành một đuôi sam gọn gàng, rồi người thợ cạo cắt tỉa râu cho anh. Người ta đưa cho anh một cái khố sạch, kimono và khăn thắt lưng, tabi và guốc. Phản anh nằm ngủ rất sạch sẽ, cũng như gian phòng. Tất cả cứ như trong mơ vậy. Và sau một giấc ngủ không mộng mị gì hết, anh thức dậy và trong thoáng chốc, tự hỏi không biết đây là đâu ở đây hay nhà tù.
Anh nóng ruột chờ đợi, hi vọng sẽ lại được dẫn đến gặp Toranaga và dự tính sẵn những điều sẽ nói, những gì sẽ tiết lộ, làm thế nào để khôn hơn, đánh lừa được Cha Alvito và làm như thế nào để nắm được ưu thế đối với ông ta. Và đối với Toranaga. Vì anh biết, không còn nghi ngờ gì nữa, do những điều cha Domingo đã nói về người Portugal, về chính trị Nhật Bản và sự buôn bán ở Nhật Bản, bây giờ anh có thể giúp Toranaga và đánh đổi lại Toranaga có thể dễ dàng cho anh những của cải mà anh muốn có.
Và lúc này đây, chẳng có tu sĩ nào để phải đấu trí, anh lại càng cảm thấy tự tin hơn. Ta chỉ cần một chút may mắn và kiên nhẫn thôi.
Toranaga đang chăm chú lắng nghe cô thông ngôn trông giống như búp bê.
Blackthorne suy nghĩ, mình có thể một tay nhấc bổng cô ta lên và nếu mình đặt hai bàn tay quanh eo lưng cô ta thì có lẽ ngón tay mình sẽ chạm nhau. Cô ta độ bao nhiêu tuổi nhỉ? Thật hoàn mỹ! Có chồng chưa? À, không thấy đeo nhẫn cưới. Thú vị đây? Cô ta không đeo bất cứ thứ đồ trang sức nào. Trừ những chiếc trâm bạc trên đầu. Mà cả cái người phụ nữ kia cũng vậy, cái bà béo ấy.
Anh cố nhớ lại. Hai người phụ nữ kia ở trong làng cũng không đeo đồ trang sức nào cả và anh cũng không thấy người nào trong gia đình Mura đeo trang sức. Tại sao vậy?
Mà cái bà béo kia là ai? Vợ Toranaga chăng? Hay là bảo mẫu của đứa trẻ? Thằng bé đó có phải là con của Toranaga không? Cha Domingo có nói rằng người Nhật chỉ có một vợ nhưng còn thê thiếp - những người tình hợp pháp - thì muốn có bao nhiêu cũng được.
Người thông ngôn có phải là thê thiếp của Toranaga không?
Có một người đàn bà như thế trong giường ngủ của mình thì nó ra thế nào nhỉ? Mình sợ sẽ đè bẹp cô ta mất.
Không, cô ta sẽ không bị đè bẹp đâu. Ở Anh cũng có những phụ nữ nhỏ nhắn gần như thế. Nhưng không như cô này.
Thằng bé còn nhỏ, lưng thẳng, mắt tròn xoe, tóc đen rậm, túm lại thành một cái đuôi sam ngắn, đầu không cạo. Nó có vẻ hết sức tò mò.
Không kịp suy nghĩ, Blackthorne nháy mắt. Đứa bé giật nảy mình rồi phá ra cười và ngắt lời Mariko, trỏ Blackthorne nói cái gì đó, và cả bọn nghe nó với một vẻ rộng lượng, không ai bắt nó im. Khi nó nói xong, Toranaga nói mấy câu ngắn gọn với Blackthorne.
"Đại nhân Toranaga hỏi tại sao senhor lại làm như vậy?"
"Ồ, chỉ là làm vui đứa bé thôi. Nó cũng là trẻ như bất kỳ trẻ con nào và trẻ con ở nước tôi thường hay cười nếu ta làm như thế. Con trai tôi bây giờ chắc cũng trạc tuổi nó. Con trai tôi lên bảy."
"Thế tử lên bảy", Mariko nói trong một giây lát im lặng, rồi mới dịch lại những điều anh vừa nói.
"Thế tử à? Có phải như thế có nghĩa là con trai duy nhất của Đại nhân Toranaga không?" Blackthorne hỏi.
"Đại nhân Toranaga có chỉ thị cho tôi đề nghị ông nên tự giới hạn mình vào việc trả lời những câu hỏi thôi."
Rồi nàng nói tiếp:
"Tôi tin nếu ông tỏ ra kiên nhẫn, thưa ông thuyền trường hoa tiêu Blackthorne, ông sẽ có cơ hội để hỏi bất cứ điều gì ông muốn hỏi sau này."
"Tốt lắm."
"Tên ông rất khó đọc, thưa senhor, vì chúng tôi không có những tiếng để phát âm cho đúng. Cho nên, vì Đại nhân Toranaga, tôi có thể dùng cái tên Nhật Bản của ông là Anjin-san được không?"
"Được thôi, có sao đâu!" Blackthorne định hỏi nhưng kịp nhớ lời bà ta vừa nói và tự nhắc nhở mình phải kiên nhẫn.
"Cảm ơn ông, Đại nhân của chúng tôi hỏi, ông có con cái nào khác không?"
"Một con gái. Nó sinh ra đúng lúc tôi sắp rời nhà tôi ở Anh. Cho nên bây giờ nó khoảng lên hai."
"Ông có một vợ hay nhiều vợ?"
"Một. Đó là phong tục nước tôi. Cũng như Portugal và Spain. Chúng tôi không có vợ lẽ... Vợ lẽ chính thức ấy."
"Đó có phải là người vợ thứ nhất của ông không?"
"Xin ông cho biết, ông bao nhiêu tuổi?"
"Ba mươi sáu."
"Ở Anh, ông sống ở đâu?"
"Ở ngoại ô của Cha Tham, một cảng nhỏ gần London."
"London là thủ phủ của các ông phải không?"
"Vâng."
"Đại nhân hỏi ông nói được những thứ tiếng nào?"
"Anh, Portugal, Spain, Holland và tất nhiên, tiếng Latin nữa."
"Holland là gì?"
"Đó là một thứ tiếng ở Châu Âu, ở nước Holland. Rất giống tiếng Đức."
Mariko cau mày.
"Holland là một thứ tiếng ngoại đạo ư? Cả tiếng Đức nữa?"
"Cả hai nước đó đều là những nước không theo Thiên Chúa giáo", anh thận trọng trả lời.
"Xin lỗi, nhưng như thế cũng chẳng khác gì ngoại đạo."
"Không, thưa senhorita, Cơ đốc giáo chia làm hai tôn giáo rất riêng biệt, rành mạch: Thiên Chúa giáo và Tin Lành. Đó là hai cách hiểu Cơ đốc giáo. Giáo phái ở Nhật Bản là theo Thiên Chúa giáo. Lúc này cả hai phe rất kình địch nhau." Anh nhận thấy vẻ ngạc nhiên của bà ta và cảm thấy Toranaga có vẻ sốt ruột vì bị gạt ra ngoài cuộc trò chuyện. Hãy cẩn thận, anh tự trách mình. Chắc chắn là người Thiên Chúa giáo. Hãy hướng câu chuyện vào sự việc thôi. Và nói đơn giản.
"Có lẽ Đại nhân Toranaga không muốn bàn luận về tôn giáo, thưa senhorita, như đã được bàn luận phần nào tại cuộc gặp gỡ đầu tiên của chúng tôi."
"Ông là người Cơ đốc giáo theo đạo Tin Lành?"
"Vâng."
"Và những người Cơ đốc giáo theo đạo Thiên Chúa là kẻ thù của ông?"
"Đa số họ coi tôi là tà đạo và kẻ thù của họ, vâng."
Bà ta ngập ngừng rồi quay về phía Toranaga nói rất dài.
Có nhiều lính gác quanh hoa viên. Tất cả đều ở xa. Tất cả đều là bọn Áo Nâu. Blackthorne bỗng nhận thấy có mười tên Áo Xanh ngồi thành một nhóm riêng trong bóng râm, mắt nhìn chăm chăm cả vào đứa bé. Như thế có ý nghĩa gì? Anh tự hỏi.
Toranaga đang chất vấn Mariko rồi nói thẳng với Blackthorne.
"Đại nhân chúng tôi muốn biết về ông và gia đình ông." Mariko bắt đầu.
"Về đất nước ông, Nữ hoàng nước ông và những người trị vì xưa kia, phong tục tập quán và lịch sử. Cũng như thế về tất cả các nước khác, nhất là Portugal và Spain. Tất cả mọi điều về thế giới ông sống. Về các tàu thuyền, vũ khí, thức ăn, buôn bán của các ông. Về các cuộc chiến tranh và những trận đánh của các ông. Cách làm thế nào để điều khiển một con tàu, lái tàu và những gì đã xảy ra trong cuộc hành trình của ông. Đại nhân muốn hiểu. Xin lỗi tại sao ông lại cười?"
"Chỉ vì thưa senhorita, hình như có nghĩa là về tất cả những gì tôi biết."
"Đó chính là ý muốn của Chúa công tôi.
"Chính" có phải là từ đúng không?"
"Đúng, thưa senhorita. Cho phép tôi có lời khen ngợi tiếng Portugal của bà, rất hoàn hảo."
Chiếc quạt của Mariko hơi rung động.
"Cám ơn senhor. Vâng, Chúa công tôi muốn biết sự thật về mọi thứ, những sự việc thật và ý kiến của ông."
"Tôi rất sung sướng được nói để Đại nhân biết. Có thể cũng mất chút thời gian đấy."
"Đại nhân tôi nói là Đại nhân có thời gian."
Blackthorne nhìn Toranaga." Wakari masu."
"Xin lỗi senhor, Chúa công tôi ra lệnh cho tôi nói với ông rằng phát âm của ông hơi sai." Mariko bày cách cho anh nói như thế nào và anh nhắc lại rồi cám ơn bà ta.
"Tôi là senhora, Mariko Buntaro chứ không phải senhorita."
"Vâng, thưa senhorra." Blackthorne liếc nhìn Toranaga.
"Bà muốn tôi bắt đầu từ đâu?"
Mariko hỏi Toranaga. Một nụ cười thoáng qua trên gương mặt gân guốc của Toranaga.
"Đại nhân nói là từ đầu."
Blackthorne biết đây là một thử thách nữa. Từ vô vàn khả năng, anh nên bắt đầu từ cái gì? Nên nói với ai? Với Toranaga, đứa bé hay người phụ nữ này? Rõ ràng, nếu chỉ đàn ông có mặt thôi thì phải nói với Toranaga, nhưng bây giờ thì sao? Tại sao có mặt phụ nữ và đứa bé? Điều này hẳn có ý nghĩa gì.
Anh quyết định tập trung vào đứa bé và đám phụ nữ.
"Thời xưa, trị vì đất nước tôi là một ông vua vĩ đại có một thanh kiếm thần gọi là Echxcalibơ và hoàng hậu là người đẹp nhất nước. Cố vấn chính của vua là một pháp sư tên là Mơlin, còn tên vua là Atơ." Anh bắt đầu một cách tự tin, kể lại huyền thoại mà cha anh thường kể rất hay trong lớp sương mù thời thơ ấu.
"Kinh đô của vua Atơ gọi là Camelot và thời ấy thật là sung sướng, không có chiến tranh, mùa màng thu hoạch tốt và..." Bỗng anh nhận ra sai lầm ghê gớm của mình. Phần chủ yếu của câu chuyện là kể về Gainơve và Laxelốt, một bà hoàng hậu ngoại tình và một chư hầu bất trung, về Mođrét, đứa con trai hoang của vua Atơ, đã phản bội lại bố, gây chiến tranh chống lại bố, và kể về một người cha đã giết chết con trai mình trong chiến trận nhưng lại bị con trai mình đánh tử thương. Ôi, lạy Chúa, làm sao ta lại ngu xuẩn thế? Toranaga có khác gì một ông vua lớn? Những người kia chằng phải là phu nhân của ông ta sao? Đây chẳng phải là con trai ông ta sao?"
"Senhor, ông khó ở à?"
"Không... Không, xin lỗi... chỉ có điều là..."
"Thưa senhor, ông đang nói về vị vua nào đó, và mùa màng tốt đẹp..."
"Vâng. Đó... cũng như phần lớn các nước, quá khứ của chúng tôi bị bao phủ trong truyền thuyết và huyền thoại, đa số là những chuyện không quan trọng", anh ấp úng nói, cố tìm cách kéo dài thời gian.
Mariko nhìn anh, lộ vẻ phân vân. Con mắt của Toranaga càng soi mói, còn đứa bé thì ngáp.
"Ông đang nói gì, thưa senhor?"
"Tôi... à...", bỗng anh lóe lên một ý.
"Có lẽ cách tốt nhất là tôi vẽ một cái bản đồ thế giới, thưa senhorra, theo như chính tôi biết", anh vội vã nói." Các vị có muốn thế không?"
Mariko dịch và anh thấy một ánh thích thú trong mắt Toranaga, nhưng chẳng thấy gì hết từ phía đứa trẻ và các phụ nữ. Làm thế nào để lôi cuốn họ?
"Chúa công tôi đồng ý. Tôi sẽ cho người đi lấy giấy..."
"Cảm ơn bà. Nhưng thế này cũng được rồi. Cho lúc này. Sau đây, nếu bà cho tôi vài thứ để viết, tôi sẽ có thể vẽ được một bản đồ chính xác."
Blackthorne rời khỏi cái đệm của anh và quỳ xuống. Anh lấy ngón tay vẽ một bản đồ thô sơ trước cát, ngược chiều để họ nhìn rõ hơn." Quả đất tròn như một quả cam, nhưng bản đồ quả đất thì như cái vỏ quả cam, cắt thành những hình bầu dục, từ Bắc xuống Nam. trải phẳng ra và hơi kéo căng một chút ở đỉnh và ở đáy. Một người Holland tên là Meccato đã phát minh ra cách vẽ chính xác này cách đây hai mươi năm. Đó là bản đồ thế giới chính xác đầu tiên. Thậm chí ta có thể đi biển được với bản đồ này... hay với những quả địa cầu của ông ta." Anh mạnh bạo vạch ra các lục địa.
"Đây là phía Bắc, đây là phía Nam, phía Đông, phía Tây. Nhật Bản ở đây, nước tôi ở kia, phía bên kia quả đất. Toàn bộ chỗ này là không ai biết đến và chưa được khám phá..." Bàn tay anh loại bỏ tất cả ở Bắc Mỹ, phía Bắc một đường chạy dài từ Mexico tới Đất Mới, tất cả ở Nam Mỹ, trừ Pêru và một dải đất hẹp ven biển chạy quanh lục địa này, rồi xóa bỏ tất cả ở phía Bắc và phía Đông Na Uy, phía Đông Maxcơva, toàn bộ châu Á, toàn bộ lục địa châu Phi, mọi thứ phía Nam Giava và mỏm chót của Nam Mỹ.
"Chúng tôi biết các bờ biển còn ngoài ra chẳng biết gì mấy. Bên trong châu Phi, châu Mỹ và châu Á hầu như hoàn toàn bí ẩn." Anh dừng lại để Mariko dịch cho kịp. Bây giờ nàng dịch dễ dàng hơn và anh cảm thấy họ mỗi lúc một chú ý hơn. Đứa trẻ cựa quậy và nhích lại gần hơn một chút.
"Thế tử muốn biết chúng ta ở đâu trên bản đồ."
"Đây Đây là Cathay, Trung Hoa, theo tôi nghĩ. Tôi không biết chúng ta cách bờ biển bao xa. Thuyền tôi phải mất hai năm mới đi được từ đây đến đấy."
Toranaga và người phụ nữ vươn cổ ra để nhìn cho rõ hơn.
"Thế tử nói, nhưng tại sao chúng ta lại bé xíu như thế trên bản đồ của ông?"
"Đây chỉ là một tỉ lệ thôi, thưa senhora. Trên lục địa này, từ Đất Mới ở đây đến Mexico ở đây, có đến gần một nghìn hải lý, mỗi hải lý là ba dặm. Từ đây đến Yedo là khoảng một trăm hải lý."
Mọi người đều im lặng rồi họ nói chuyện riêng với nhau.
"Đại nhân Toranaga muốn ông chỉ trên bản đồ cho biết ông đã tới Nhật Bản như thế nào?"
"Theo đường này. Đây là eo Magellan. Ở đây, mỏm mút của Nam Mỹ. Nó được đặt tên của nhà hàng hải Portugal đã phát hiện ra nó cách đây tám mươi năm. Từ đó, người Portugal và Spain đã giữ bí mật con đường này để dùng riêng. Chúng tôi là những người ngoài đầu tiên đi qua eo. Tôi có được một trong những hải đồ bí mật của họ. Một kiểu bản đồ, nhưng ngay như thế, tôi vẫn phải đi mất sáu tháng mới qua được vì gió ngược."
Mariko dịch những lời anh nói. Toranaga ngước nhìn, không tin.
"Chúa công tôi nói rằng ông đã nhầm. Tất cả bọn man... tất cả tất cả Portugal đều đến từ phía Nam. Đó là con đường của họ, con đường duy nhất."
"Đúng. Đúng là người Portugal ưa thích đường đó hơn... Chúng tôi gọi là mũi Hảo Vọng - vì họ có hàng tá pháo đài rải dọc các bờ biển này. Châu Phi và Ấn Độ và quần đảo Hương Liệu... để cung cấp lương thực và để trú chân qua mùa đông. Và các chiến thuyền của họ tuần tiễu chiếm độc quyền các con đường trên biển. Tuy nhiên, người Spain dùng eo Magellan để đi tới các thuộc địa của họ ở châu Mỹ, Thái Bình Dương và tới Philippines hoặc vượt qua đây, tại eo đất hẹp ở Panama, đi qua trên bộ để tránh mất nhiều tháng trên biển. Đối với chúng tôi, đi qua eo biển Magellan an toàn hơn vì nếu không, chúng tôi sẽ bị tất cả các pháo đài Portugal thù địch đánh tới tấp, liên tục. Xin bà nói với Đại nhân Toranaga rằng bây giờ tôi biết vị trí của nhiều pháo đài đó. Tiện đây cũng xin nói, đa số sử dụng quân lính Nhật Bản", anh nói thêm một cách trịnh trọng.
"Tu sĩ cho tôi biết điều đó trong tù là người Spain đối địch với người Portugal, với tất cả các tu sĩ dòng Temple."
Blackthorne thấy có phản ứng ngay tức khắc trên gương mặt Mariko và khi bà ta dịch, cũng thấy có phản ứng trên gương mặt Toranaga nữa. Cứ mặc bà ta và cố gắng đơn giản, anh tự nhủ mình.
"Quân lính Nhật Bản ư? Ông muốn nói là những Samurai?"
"Tôi cho rằng Ronin thì có lẽ đúng hơn."
"Ông nói một bản đồ bí mật. Đại nhân muốn biết làm sao mà ông lấy được?"
"Một người tên là Pieter Suyderhof, người Holland, là thư ký riêng của Tổng Giám mục ở Goa - đó là danh hiệu tu sĩ Thiên Chúa giáo đứng đầu ở Goa, thủ phủ của thuộc địa Portugal ở Ấn Độ. Tất nhiên các vị đều biết là người Portugal đang tìm cách chiếm lục địa này bằng vũ lực? Với tư cách là thư ký riêng của vị Tổng Giám mục này, vốn cũng là Phó vương Portugal, mọi tài liệu đều qua tay ông ta. Sau nhiều năm, ông ta lấy được một số hải đồ đem chép lại. Những hải đồ này cho thấy những bí mật về con đường đi qua eo biển Magellan và cũng cho biết cách vượt quanh mũi Hảo Vọng, những chỗ cạn và đá ngầm từ Goa đến Nhật Bản qua Macao. Hải đồ của tôi là về eo biển Magellan. Tôi mất giấy tờ của tôi cùng với chiếc thuyền. Những giấy tờ ấy rất quan trọng và có thể có giá trị to lớn đối với Đại nhân Toranaga."
"Chúa công tôi nói sẽ ra lệnh tìm kiếm. Xin ông nói tiếp."
"Khi Suyderhof trở về Holland, ông ta bán các tài liệu đó cho Công ty thương mại Đông Ấn, là Công ty được phép độc quyền thăm dò vùng Viễn Đông."
Mariko lạnh lùng nhìn anh:
"Người đó là một gián điệp lấy tiền phải không?"
"Ông ta được người ta trả tiền bản đồ của ông ta, vâng. Phong tục của họ là như vậy, họ thưởng công một người như thế. Không phải thưởng bằng danh tước hoặc cấp đất mà chỉ tiền thôi. Holland là một nước cộng hòa.. Tất nhiên, thưa senhorra, nước tôi và các đồng minh của nước tôi, Holland, đang có chiến tranh với Spain và Portugal. Trước kia nữa cũng có chiến tranh trong nhiều năm. Thưa senhorra, bà cũng hiểu rằng, trong chiến tranh, tìm ra bí mật của kẻ địch là điều rất quan trọng!."
Mariko quay lại, nói một tràng dài.
"Chúa công tôi nói, tại sao viên Tổng giám mục đó lại dùng một kẻ thù?"
"Pieter Suyderhof có kể cho tôi nghe rằng vị Tổng giám mục đó, vốn là tu sĩ dòng Temple, chỉ quan tâm đến buôn bán thôi, Suyderhof đã làm cho thu nhập của họ tăng gấp đôi cho nên ông ta rất được họ.
"Cưng chiều" Ông ta là một thương gia hết sức khôn ngoan - người Holland thường giỏi hơn người Portugal về mặt này. Cho nên người ta đã không kiểm tra kỹ giấy tờ giới thiệu của ông ta. Với lại nhiều người mắt xanh tóc vàng, người Đức và những người u châu khác, cũng là người Thiên Chúa giáo." Blackthorne đợi cho đến khi dịch xong mới thận trọng nói thêm:
"Ông ta là trùm gián điệp Holland ở châu Á, một người lính của đất nước ông ta và ông ta đã đưa được người của mình lên tàu thuyền Portugal. Xin bà nói với Đại nhân Toranaga rằng không có sự buôn bán với Nhật Bản, thuộc địa Portugal ở Ấn Độ không thể tồn tại lâu được."
Toranaga nhìn chằm chặp vào bản đồ trong khi Mariko nói. Không thấy ông có phản ứng gì. Blackthorne thắc mắc, không biết Mariko có dịch hết không?
"Chúa công tôi muốn có một bản đồ thế giới chi tiết, trên giấy, càng sớm càng tốt, chỉ rõ tất cả các căn cứ Portugal và số Ronin ở mỗi căn cứ. Đại nhân nói xin ông nói tiếp."
Blackthorne biết mình đã tiến lên được một bước khổng lồ. Nhưng đứa bé ngáp cho nên anh quyết định đổi hướng, tuy vẫn chiếu vào những bến cảng ấy.
"Thế giới chúng tôi không phải bao giờ cũng thế này. Chẳng hạn, phía Nam con đường này, chúng tôi gọi là xích đạo, bốn mùa lại đảo ngược. Khi chúng ta ở vào mùa hạ thì họ ở vào mùa đông, khi ở ta đang mùa hạ thì họ rét cóng."
"Sao lại thế?"
"Tôi không biết, nhưng đúng như vậy. Con đường đến Nhật Bản là đi qua một trong hai eo biển phía Nam đó. Người Anh chúng tôi đang tìm một con đường đi qua phía Bắc, hoặc ở phía Đông Bắc qua Xibêri, hoặc Tây Bắc qua châu Mỹ. Tôi đã đi lên phía Bắc đến tận chỗ này. Đất đai ở đó luôn luôn đóng băng và luôn luôn có tuyết, rét gần như quanh năm. Đến nỗi nếu không đeo bao tay bằng lông thú, ngón tay sẽ lạnh cóng ngay. Dân sống ở đó gọi là người Laplan. Quần áo của họ đều bằng da lông thú. Đàn ông đi săn còn đàn bà làm đủ mọi việc. Phần lớn công việc của đàn bà là may tất cả các quần áo. Muốn vậy, họ phải nhai da thú cho mềm ra mới khâu được."
Mariko bật cười to.
Blackthorne mỉm cười với nàng, lúc này cảm thấy tự tin hơn.
"Đúng thế đấy, thưa senhora. Honto."
"Sorewa honto desu ka?" Toranaga nóng nảy hỏi. Cái gì đúng?
Mariko lại càng cười to, và nói cho ông biết. Tất cả đều cười vang.
"Tôi đã sống với họ gần một năm. Chúng tôi bị kẹt giữa các tảng băng và phải đợi cho băng tan. Thức ăn của họ là cá, hải cẩu, đôi khi là gấu Bắc Cực và cá voi, những thứ đó họ ăn sống. Món ngon nhất, họ ưa thích nhất là mỡ cá voi sống."
"Ồ, thôi đi, Anjin-san, làm gì có chuyện ấy?"
"Đúng thật đấy. Và họ sống trong những ngôi nhà nhỏ, tròn, hoàn toàn đắp bằng tuyết và họ không tắm bao giờ."
"Sao, không tắm bao giờ à?"
Anh lắc đầu và quyết định không nói cho bà ta biết là ở Anh người ta cũng ít khi tắm, ít hơn cả ở Portugal và Spain là những nước nóng bức.
Mariko dịch lại, Toranaga lắc đầu có vẻ không tin.
"Chúa công tôi nói rằng như thế là bịa đặt quá. Không ai có thể sống mà không tắm. Ngay cả dân không có văn minh."
"Sự thật là như thế, honto", anh bình tĩnh nói và giơ tay lên.
"Tôi xin thề trước Chúa Jesus Nadarết và trước linh hồn tôi, tôi thề đó là sự thật."
Mariko im lặng chăm chú nhìn anh:
"Tất cả?"
"Vâng. Đại nhân Toranaga muốn biết sự thật. Tôi nói dối làm gì? Mạng tôi trong tay Đại nhân. Có thể dễ dàng chứng minh được... Không, nói cho đúng ra, rất khó có thể chứng minh được những điều tôi nói... Phải đi tới đó và tự mắt nhìn thấy. Chắc chắn người Portugal và Spain là kẻ thù của tôi sẽ không ủng hộ tôi. Nhưng Đại nhân Toranaga muốn biết sự thật, Đại nhân có thể tin tôi nói sự thật."
Mariko suy nghĩ một lát. Rồi nàng cẩn thận dịch lại đầy đủ những điều anh nói. Nàng nói tiếp:
"Đại nhân Toranaga nói không thể nào tin được có người không tắm mà có thể sống được."
"Vâng. Nhưng đây là những vùng đất rất lạnh. Thói quen của họ khác với các vị, với tôi. Chẳng hạn, ở nước tôi, mọi người tin tắm là nguy hiểm cho sức khỏe. Bà tôi, Granny Jacoba, thường nói:
"Tắm khi ra đời, rồi tắm một lần nữa khi khâm liệm là sẽ được lên thiên đường."
"Thật khó tin."
"Một số phong tục của các vị cũng rất khó tin. Nhưng đúng là tôi đã tắm nhiều lần trong thời gian ngắn ở nước các vị hơn bao nhiêu năm trước đây. Tôi thẳng thắn thừa nhận rằng tôi có thấy sảng khoái hơn." Anh mỉm cười:
"Tôi không còn tin tắm là nguy hiểm nữa. Như thế là đến nơi đây tôi đã có lợi, có phải không?"
Ngẫm nghĩ một lát, Mariko nói:
"Vâng", rồi dịch cho Toranaga.
Kiri nói:
"Anh ta thật lạ lùng... lạ lùng, neh?"
"Mariko-san, bà nhận xét anh ta như thế nào?" Toranaga hỏi.
"Tôi tin anh ta nói thật hoặc anh ta tin mình nói thật. Rõ ràng hình như anh ta có thể có một giá trị lớn lao đối với ngài, thưa Đại nhân. Chúng ta biết quá ít về thế giới bên ngoài. Cái đó có giá trị với ngài không? Tôi không biết. Nhưng hầu như anh ta từ trên trời rơi xuống hoặc từ dưới biển nổi lên. Nếu anh ta là kẻ thù của người Portugal và Spain thì tin tức của anh ta đem lại, giả sử như có thể tin được, có lẽ sẽ có ý nghĩa quan trọng rất lớn đối với quyền lợi của Đại nhân, neh?"
"Đúng đấy", Khi nói.
"Yaemon Sama, cháu nghĩ thế nào?"
"Cháu ấy à, thưa chú? Ồ, cháu thấy anh ta xấu xí, cháu không ưa bộ tóc vàng hoe và cặp mắt mèo của anh ta. Trông anh ta chẳng có vẻ gì là người cả", đứa bé nói thẳng một hơi.
"Cháu rất mừng là mình không sinh ra làm một tên man rợ như anh ta, mà là một Samurai như cha cháu. Ta có thể đi bơi được không, chú?"
"Để mai, Yaemon", Toranaga nói, phật ý vì không nói chuyện trực tiếp được với viên hoa tiêu.
Trong khi họ trò chuyện với nhau, Blackthorne quyết định là đã đến lúc rồi. Khi ấy Mariko quay lại.
"Chúa công tôi hỏi tại sao ông lại lên phương Bắc?"
"Tôi là hoa tiêu một chiếc tàu. Chúng tôi tìm một con đường phía Đông Bắc, thưa senhora. Nhiều điều tôi nói nghe có vẻ buồn cười, tôi biết vậy. Chẳng hạn bảy mươi năm trước đây, vua Spain và Portugal đã long trọng ký một hiệp ước chia đôi quyền sở hữu về thế giới, cái thế giới chưa được phát hiện. Do nước của các vị rơi vào nửa của người Portugal, cho nên chính thức mà nói, nước các vị thuộc Portugal. Đại nhân Toranaga, bà, tất cả mọi người, lâu đài này và mọi thứ trong lâu đài là trao cho Portugal."
"Ồ, thôi đi, Anjin-san. Xin lỗi, thật là vô lý!"
"Tôi đồng ý rằng sự ngạo mạn của họ là không thể tưởng tượng được. Nhưng đúng là như thế!" Mariko dịch ngay lập tức và Toranaga cười lớn một cách giễu cợt.
"Đại nhân Toranaga nói rằng Đại nhân cũng có thể chia đôi thiên giới với Thiên Hoàng Trung Hoa được, neh?"
"Xin bà nói với Đại nhân Toranaga là tôi xin lỗi, không hẳn như thế đâu." Blackthorne nói, anh biết mình đang đi trên miếng đất nguy hiểm.
"Việc đó đã được viết thành văn bản hợp pháp đem lại cho mỗi ông vua quyền chiếm lấy bất cứ đất đai nào không theo đạo Thiên Chúa do thần dân của họ phát hiện ra và tiêu diệt chính quyền ở đó, thay nó bằng chế độ cai trị của Thiên Chúa giáo." Trên bản đồ, ngón tay anh vạch một đường từ Bắc xuống Nam, chia đôi Brazil.
"Mọi cái ở phía Đông con đường này là của Portugal, mọi cái ở phía Tây là của Spain. Phedro Cabran đã tìm ra Brazil năm 1500, cho nên bây giờ Brazil thuộc Portugal, văn hóa bản địa và những người cai trị hợp pháp bị tiêu diệt và Portugal trở nên giàu có với vàng và bạc lấy từ các mỏ và cướp của các đền ở nước đó. Phần còn lại của châu Mỹ phát hiện được cho đến nay là thuộc quyền sở hữu của Spain:
- Mexico, Pêru, gần toàn bộ lục địa phía Nam. Họ đã diệt dân tộc Inca, xoá bỏ nền văn hóa của dân tộc này, bắt hàng trăm nghìn người Inca làm nô lệ. Bọn viễn chinh có súng ống hiện đại, còn thổ dân thì chẳng có gì. Đi theo bọn viễn chinh là các tu sĩ. Chẳng bao lâu, một số vua chúa của họ đã cải đạo và sự hằn thù cũng mòn mỏi đi. Thế rồi vua chúa này bị xúi giục đánh vua chúa kia và vương quốc đó bị nuốt dần từng mảnh. Bây giờ Spain là quốc gia giàu nhất thế giới chúng tôi nhờ số vàng bạc của người Inca và người Mexico mà họ đã cướp được, đưa về Spain."
Lúc này Mariko có vẻ nghiêm trọng: Nàng đã nhanh chóng nắm được ý nghĩa bài học của Blackthorne. Và Toranaga cũng vậy.
"Chúa công tôi nói đây là một cuộc trò chuyện vô bổ. Làm sao họ lại có thể cho mình những quyền như thế được?"
"Không đâu, họ không tự cho mình những quyền đó", Blackthorne nghiêm trang nói.
"Giáo hoàng cho họ những quyền đó, đích thân Giáo hoàng, người đại diện cho Chúa Kito trên trái đất. Đánh đổi lấy việc truyền đạo."
"Tôi không tin", Mariko thết lên.
"Xin bà hãy dịch lại những điều tôi nói. Honto đấy, thưa senhorra."
Mariko dịch và nói rất dài, rõ ràng là bối rối. Rồi:
"Chúa công tôi... Chúa công tôi nói... ông chỉ tìm cách đầu độc người chống lại những kẻ thù của ông. Sự thật thế nào? Thưa senhor, ông phải lấy tính mạng mình đảm bảo."
"Giáo hoàng Alêcxanđrơ 6 đã định ra đường phân ranh đầu tiên, năm 1493." Blackthorne bắt đầu, lòng thầm cảm ơn Alban Caradoc đã nhồi nhét vào đầu anh nhiều chuyện như thế khi anh còn trẻ và cảm ơn cha Domingo đã cho anh biết về lòng kiêu hãnh của người Nhật và ý nghĩ của người Nhật.
"Năm 1506, Giáo hoàng Giuliút 2 phê chuẩn những thay đổi trong Hiệp ước Toócđêxila do Portugal và Spain ký năm 1494, sửa lại đường ranh giới đôi chút. Giáo hoàng Clêmen 7 phê chuẩn Hiệp ước Saragossa năm 1529, chỉ mới cách đây có bảy mươi năm, vạch ra một đường thứ hai ở chỗ này." Ngón tay anh vạch một đường kinh tuyến trên cát, cắt qua múi chót phía Nam của Nhật Bản.
"Điều đó đem lại cho Portugal toàn quyền đối với nước các vị, đối với tất cả các nước này: từ Nhật Bản, Trung Hoa đến châu Phi - theo cách tôi đã nói. Để độc quyền bóc lột - bằng mọi phương tiện - đánh đổi lấy việc truyền đạo Thiên Chúa!." Anh lại chờ và người phụ nữ ngập ngừng, bấn loạn và anh có thể cảm thấy sự bực tức của Toranaga mỗi lúc một tăng vì phải đợi Mariko dịch lại.
Mariko gắng gượng mở miệng, nhắc lại những điều Blackthorne đã nói. Rồi nàng nghe Blackthorne, lòng căm ghét những điều mình nghe thấy. Có thật thế chăng? Nàng tự hỏi. Làm sao Đức Giáo hoàng lại có thể nói những lời như thế? Đem nước chúng ta cho bọn Portugal? Chắc chắn đây là một điều dối trá. Nhưng viên hoa tiêu đã thề trước Chúa Jesus Nadarết kia mà.
"Thưa Đại nhân, viên hoa tiêu nói", Mariko bắt đầu.
"Vào…vào cái thời Đức Giáo hoàng chí thánh đưa ra những quyết định này, toàn bộ thế giới của họ, ngay cả nước của Anjin-san đều theo đạo Thiên Chúa giáo. Sự phân liệt chưa... chưa xảy ra. Cho nên... cho nên những... những quyết định đó của Giáo hoàng tất nhiên... tất nhiên là bắt buộc đối với mọi quốc gia. Nhưng dù vậy, ông ta nói thêm rằng tuy người Portugal được độc quyền bóc lột Nhật Bản. Spain và Bồ Đào nha không ngừng xung đột, tranh cãi nhau về quyền sở hữu vì sự buôn bán trù phú của chúng ta với Trung Hoa."
"Kiri-san, ý kiến của bà thế nào?" Toranaga nói, cũng kinh động như những người khác. Chỉ có đứa bé là không để ý và đùa nghịch với chiếc quạt của nó.
"Ông ta tin mình nói thật!" Kiri nói.
"Vâng, tôi nghĩ thế. Nhưng làm thế nào để chứng minh được tất cả... hay một phần."
"Mariko-san, theo bà làm thế nào để có thể chứng minh được?" Toranaga hỏi, ông rất bối rối vì phản ứng của Mariko đối với những điều Blackthorne đã nói nhưng cũng lại rất hài lòng là mình đã đồng ý dùng Mariko làm thông ngôn.
"Tôi sẽ hỏi cha Tsukku-san, thưa Đại nhân", Mariko nói.
"Với lại tôi cũng sẽ cử một người nào đó, một chư hầu tin cậy, đi ra thế giới để xem xét. Có lẽ đi cùng với Anjin-san."
Kiri nói:
"Nếu ông tu sĩ không đồng ý với những lời nói của anh ta, thì không nhất thiết có nghĩa là Anjin-san này nói dối, neh?" Kiri rất hài lòng về việc mình đã gợi ý dùng Mariko làm thông ngôn khi Toranaga tìm người thay thế Tsukku-san. Bà biết có thể tin Mariko được và một khi Mariko đã thề trước vị Chúa ngoại lai của mình thì bà ta sẽ im lặng dù cho có bị tu sĩ Cơ Đốc giáo nào truy vấn. Bọn ma quỷ ấy càng biết ít bao nhiêu càng tốt, Kiri thầm nghĩ. Và cái tên man rợ quả là có một kho tàng kiến thức!
Kiri thấy đứa bé lại ngáp và bà cảm thấy hài lòng. Đứa bé càng hiểu được ít càng tốt, bà tự nhủ. Rồi bà nói:
"Tại sao không cho tìm thủ lĩnh các tu sĩ Cơ đốc giáo và hỏi ông ta về những việc này? Xem ông ta nói gì? Đa số họ có gương mặt thật thà và họ hầu như không có tính xảo quyệt."
Toranaga gật đầu, mắt nhìn Mariko.
"Theo chỗ bà biết, Mariko-san, về bọn man rợ phương Nam, bà có cho rằng lệnh của Giáo hoàng sẽ được tuân theo không?"
"Chắc chắn là được tuân theo, điều đó không phải nghi ngờ gì cả."
"Mệnh lệnh của Giáo hoàng được coi như tiếng nói của Chúa trời Cơ đốc giáo, có phải không?"
"Vâng."
"Tất cả nhưng người Cơ đốc giáo theo đạo Thiên Chúa sẽ tuân lệnh Giáo hoàng?"
"Vâng."
"Ngay cả những người Cơ đốc giáo ở đây?"
"Vâng, theo tôi nghĩ."
"Cả bà nữa?"
"Vâng, thưa Chúa công. Nếu đó là lệnh trực tiếp của Đức Giáo hoàng chí thánh cho đích thân tôi. Vâng, vì sự cứu rỗi của linh hồn tôi." Ánh mắt Mariko kiên định.
"Nhưng cho đến khi ấy thì tôi sẽ không tuân theo một người nào khác ngoài lãnh chúa của tôi, người đứng đầu gia đình tôi hoặc chồng tôi. Tôi là người Nhật, đúng tôi là Cơ đốc giáo, nhưng trước hết, tôi là một Samurai."
"Tôi cho rằng nếu vậy thì Đức chí thánh đó nên lánh xa bờ biển nước Nhật chúng ta thì tốt hơn..." Toranaga suy nghĩ một lát rồi quyết định phải làm gì với tên man rợ, Anjin-san.
"Nói với anh ta..." ông đừng lại. Mọi con mắt dồn về phía con đường nhỏ và nhìn vào người phụ nữ đã luống tuổi đang đi tới. Bà cụ mặc chiếc áo thụng có trùm đầu của ni cô Phật giáo. Bốn tên Áo Xám đi cùng với bà ta. Bọn Áo Xám dừng lại, bà ta tiến lên một mình.
Bạn cần đăng nhập để bình luận