Shogun Tướng Quân

Chương 48

Bọn rợ sống ở đây, Anjin-san." Người Samurai tiến lên phía trước.
Blackthorne đảo mắt nhìn vào bóng đêm một cách khó khăn, không khí hầm hập, khó thở."Ở đâu? Nhà kia à? Đây ư?"
"Vâng. Đúng đấy, xin lỗi. Ông có trông thấy không?"
Một số nhà cửa lụp xụp và xóm ngõ cách con đường trơ trụi và lầy lội khoảng một trăm bước. Một ngôi nhà lớn nhô lên khỏi xóm vạch một đường viền mờ mờ trên nền trời đen kịt.
Blackthorne nhìn quanh một lúc cho quen mắt, dùng quạt xua đuổi những con vật hút máu đang bu đầy xung quanh. Vừa mới đây thôi, khi qua khỏi cái cầu thứ nhất anh như bị rơi vào một mê cung.
Con đường mà người ta dẫn anh vượt qua số đường phố và lối ngõ, lúc đầu thì hướng ra bãi biển rồi vòng về phía Đông, bước qua những cầu cao, cầu thấp, rồi lại hướng về phía Bắc dọc theo một dòng suối khác chảy quanh co ra tới vừng ngoại thành, nơi đất đai thấp và ẩm ướt. Càng xa khỏi lâu đài, đường đi càng nhỏ dần, nhà cửa càng nghèo nàn dần. Dân ở đây càng khúm núm hơn và rất hiếm có những ánh sáng le lói qua các shoji. Đối với anh, dường như Yedo được tạo nên bằng những khối rải rác các chòm xóm bị chia cắt bởi những con đường và những dòng suối.
Ở đây, về phía đông Nam thành phố hoàn toàn lầy lội và con đường thì ngập ngụa bùn hôi thối. Đôi lúc một mùi hôi thối bốc lên sặc sụa gồm những khí độc từ rong biển, từ phân bã, từ bùn tanh và rõ hơn cả là một vị chát dịu mà anh không đoán ra là gì, tuy cảm thấy rất quen thuộc.
"Tanh tưởi như ở Billingsgate vào lúc triều xuống", anh lẩm bẩm, trong khi lại giết thêm một con bọ đêm bò lên má anh. Toàn thân anh đẫm mồ hôi.
Thế rồi anh bỗng nghe thấy một giọng yếu ớt hát lên khúc ca về biển bằng tiếng Holland, anh quên hết ngay mọi nỗi khó chịu.
"Cậu Vinck đó chăng?"
Mừng quá, anh vội vã bước về phía tiếng động, những người phu cẩn thận soi đường, Samurai bước theo sau.
Bây giờ đã tới gần hơn, anh thấy ngôi nhà một tầng nửa giống kiểu Nhật, nửa giống kiểu u. Ngôi nhà được dựng lên bằng cột, xung quanh có hàng rào tre cao bao bọc và trông mới hơn so với các cụm nhà gần đó. Không có cổng, chỉ có một lỗ chui qua hàng rào. Mái nhà lợp rơm, cửa trước chắc chắn, tường ghép ván thô, và cửa sổ có những cánh chớp kiểu Holland. Đây đó le lói những vệt ánh sáng qua các khe hở. Tiếng hát và tiếng đùa cợt lại nổi lên nhưng anh chưa nhận ra được giọng của ai. Đường rải đá dẫn thẳng tới thềm nhà qua một thửa vườn bẩn thỉu. Một cán cờ ngắn buộc vào cổng. Anh dừng lại nhìn trân trân vào đó. Một mảnh vải bạc màu làm thành lá cờ Holland treo hờ hững làm cho nhịp mạch trong người anh đập dồn dập.
Cánh cửa trước mở ngỏ. Một vệt ánh sáng ngả xuống thềm. Baccus Van Nekk say ngả nghiêng đi vấp váp ra bờ thềm, mắt nhắm mắt mở, vạch khố ra, tè vống lên thành một vòng cung cao.
"A", anh ta rên lên vì khoái cảm.
"Không gì khoái bằng tè."
"Thế à?", Blackthorne nói to lên bằng tiếng Holland từ cổng.
"Sao không dùng cái bô hả?"
"Hả?" Van Nekk hấp him đôi mắt nhìn vào bóng đêm tới chỗ Blackthorne đang đứng với viên Samurai dưới vệt sáng.
"Jesuma. Lạy Chúa trên trời, Samurai!" Anh ta cúi lom khom lẩm bẩm:
"Gomen nasai, Samurai Sama. Ichibon gomen nasai, cho tất cả bọn khỉ Sama." Anh ta đứng thẳng người lên, cố nhếch mép cười, miệng lẩm bẩm như để chỉ mình nghe? Có lẽ là say. Nhưng mà cái thằng con hoang đĩ bợm kia lại nói tiếng Holland! Gomen nasai neh?" anh ta gọi to lên một lần nữa, đi nghiêng ngả quay vào nhà, tay sờ soạng vào chiếc khố.
"Hề, Bacut, không biết gì hơn là lại chui vào ổ à?"
"Gì hả?" Van Nekk quay mình như lén cơn giật, nhìn trừng trừng vào vùng ánh sáng, ráng sức nhìn cho rõ hơn.
"Hoa tiêu?" anh cất giọng nghẹn ngào.
"Có phải anh đấy không, hoa tiêu? Trời hại đôi mắt của ta, chẳng nhìn thấy gì hết. Hoa tiêu, vì lòng yêu Chúa, có phải anh đấy không?"
Blackthorne cười phá lên. Ông bạn già của anh trông trần như nhộng, kỳ cục quá, của quý vẫn lủng lẳng bên ngoài.
"Đúng rồi, tớ đây!" Rồi anh nói với người Samurai đang nhìn với vẻ miệt thị rõ rệt:
"Matte kusarai. Làm ơn đứng đợi tôi."
"Hai, Anjin-san."
Blackthorne tiến lên phía trước, và bây giờ qua vệt sáng anh nhìn thấy những mẩu đầu thừa đuôi thẹo quẳng vãi khắp vườn. Anh khó chịu bước qua những vật chướng ngại đó rồi chạy lên bậc thềm.
"Hêlô, Bacut, anh còn béo hơn cả lúc chúng ta rời khỏi Rotterdam, neh?" Anh nồng nhiệt vỗ vào hai vai của Bacut.
"Chúa cứu thế ơi, có đúng là anh đấy không?"
"Tất nhiên, đúng là tớ rồi."
"Chúng tôi cứ ngỡ là anh chết lâu rồi cơ", Van Nekk nhích người ra, sờ mó vào người Blackthorne để tin thực sự là mình không nằm mơ.
"Lạy Chúa, thế là những lời cầu nguyện của tôi đã được đáp ứng. Hoa tiêu, cái gì đã xảy ra với anh, anh vừa từ đâu tới đây? Thật là kỳ diệu! Có đúng là anh không đấy?"
"Đúng rồi. Nào bây giờ hãy làm ơn nhét của quý của anh vào chỗ của nó đã rồi ta vào trong nhà", Blackthorne bảo bạn, nhớ tới sự hiện diện của viên Samurai.
"Gì nhỉ? À! Xin lỗi, xin lỗi, tôi..." Van Nekk vội vàng làm theo lời bạn, nước mắt bắt đầu trào ra hai bên má.
"Ôi, lạy Chúa, hoa tiêu... Có lẽ món rượu gin quỷ quái lại chơi xỏ tớ nữa rồi. Nào đi, à nhưng hãy để tớ báo trước đã, hả?"
Anh ta quay vào trước dẫn đường, hơi lảo đảo tí chút, có lẽ do cơn say bốc hơi cùng với niềm vui. Blackthorne theo sau. Van Nekk giữ lấy cánh cửa mở, hét to lên át cả những tiếng hát khàn khàn:
"Các cậu ơi! Hãy nhìn xem ông già Nôen mang đến cho chúng ta cái gì!" Anh ta đóng sầm cánh cửa đằng sau Blackthorne để tăng thêm phần hiệu quả của lời nói.
Trong phút chốc, tất cả đều im ắng.
Phải mất một lúc lâu Blackthorne mới quen mắt với ánh sáng. Không khí nồng nặc làm anh nghẹt thở. Anh trông thấy mọi người đều nhìn trừng trừng vào anh như thể anh là một bóng ma hiện hình. Thế rồi một tiếng gọi thốt ra và tất cả la hét đón chào mừng rỡ xoắn xít lấy anh, đấm thùm thụp vào lưng anh, nói nhao nhao lên.
"Hoa tiêu, anh ở đâu đến, uống chút nhé, Chúa ơi, không thể thế được, cứ tè vào mũ tớ đây này, trông thấy anh thật mừng quá, chúng tôi cứ tưởng là anh chết rồi. Không, chúng ta đều tốt đẹp, ít nhất cũng đều đẹp cả. Mang ghế ra đây đồ đĩ kia, tôn ông hoa tiêu Sama phải được ngồi vào cái ghế có đệm cỏ tốt nhất. Hê, rượu mạnh, neh? Mau lên, thề có Chúa, mau lên nào! Tai hại thay con mắt của ta chẳng nhìn thấy gì sất, ta muốn bắt tay hoa tiêu quá đi..."
Cuối cùng Vinck phải hét to lên:
"Lần lượt từng người một, các cậu ơi! Để cho anh ta thở với chứ! Lấy cho anh hoa tiêu cái ghế và đồ uống đi, tạ ơn Chúa! Đúng thật, tớ cho rằng anh ta cũng là Samurai cơ đấy…"
Có người nào đó ấn vào tay Blackthorne một cái cốc gỗ. Anh ngồi vào một chiếc ghế lung lay và tất cả mọi người đều nâng cốc rồi hàng loạt câu hỏi lại tuôn ra ào ào như mưa lũ.
Blackthorne đưa mắt nhìn quanh. Căn buồng có nhiều ghế dài, một ít ghế tựa và bàn gỗ mộc dưới ánh sáng của những ngọn nến và đèn dầu Một thùng rượu sake lớn đặt trên sàn nhà bẩn thỉu. Trên một chiếc bàn, đầy những đĩa rếch và một tảng thịt đùi nướng dở ruồi bậu đầy.
Sát chân tường là sáu người đàn bà cáu bẩn, quỳ mọp khúm núm, cúi đầu chào anh.
Những người của anh, mặt mày hớn hở, chờ đợi anh bắt đầu nói. Đó là Sonk - đầu bếp, Johan Vinck - phó trưởng tàu và là pháo thủ chính, Salamon - anh chàng câm, Croocq - chú nhóc, Ginsel - thợ buồm, Baccus Van Nếch - thương gia chính và thủ quĩ, và cuối cùng là Jan Roper - một thương gia khác, ngồi tách xa như thường lệ, và cũng vẫn cái mỉm cười chua chát trên khuôn mặt mỏng căng ra.
"Thuyền trưởng đâu rồi?" Blackthorne hỏi.
"Chết rồi, hoa tiêu ạ, ông ta chết rồi..." Sáu giọng cùng chen nhau trả lời, tranh nhau kể, cho đến khi Blackthorne giơ tay lên.
"Bacut?"
"Ông ấy đã chết, anh hoa tiêu ạ. Không bao giờ ông ta lên khỏi cái hố được. Anh có nhớ là ông ta ốm không hả? Sau khi chúng mang anh đi, đúng vậy, đêm đó chúng tôi nghe thấy ông ta nấc lên trong bóng tối. Có đúng không, các cậu?"
Một bản hợp âm hỗn độn những tiếng đúng, đúng cất lên, rồi Van Nekk nói tiếp:
"Tớ ngồi bên cạnh ông ta. Hoa tiêu ạ. Ông ta gắng gượng đòi uống nước, nhưng chẳng còn giọt nước nào, thế là ông ta lại nấc lên, rên rỉ. Tớ không nhớ là lúc đó mấy giờ nữa,- chúng tớ đều lo lắng nghĩ tới cái chết, - thế rồi ông ta lại nấc lên, đúng vậy, thế là thần chết gõ cửa. Thật là tồi tệ, hoa tiêu ạ."
Jan Roper nói thêm vào:
"Thật là kinh khủng, đúng vậy. Nhưng đó là sự trừng phạt của Chúa trời."
Blackthorne lần lượt nhìn vào mặt từng người.
"Có ai đánh ông ta không? Để cho ông ta nằm im?"
"Không - không, ồ không đâu." Van Nekk trả lời.
"Ông ta chết ngay lúc đó. Ông ta được đặt vào trong hố cùng một người nữa, thằng Nhật, anh có nhớ không, cái thằng cứ định tự dìm chết trong thùng nước tè ấy? Thế rồi Chúa Omi ra lệnh đem xác của Spinbécghen ra khỏi hố để đi thiêu. Còn cái tên sâu bọ khốn khổ kia thì vẫn để lại trong hố. Chúa Omi ném cho hắn con dao, hắn thọc luôn con dao vào bụng thối tha của hắn, và chúng đã lấp cái hố. Anh còn nhớ tên ấy không, hoa tiêu?"
"Có chứ. Thế còn Maetsucơ thì sao?"
"Anh Vinck, hãy kể đi thì hơn."
"Cái thằng choắt chéo mặt chuột ấy, anh hoa tiêu ạ." Vinck bắt đầu kể, nhưng mọi người lại nhao nhao lên kể xen vào những chi tiết, đến nỗi Vinck phải quát to lên:
"Bacut bảo tớ kể cơ mà. Ôi, hãy vì Chúa! Rồi sẽ đến lượt các cậu!"
Các tiếng khác im bặt, Sonk khuyến khích:
"Anh cứ kể tiếp đi, Johan."
"Anh hoa tiêu ạ, cánh tay của nó bị thối rữa. Nó bị một nhát chém trong lúc chiến đấu, anh còn nhớ cuộc chiến đấu lúc anh ngã xuống chứ? Lạy Chúa tôi, thế mà dường như đã lâu lắm rồi. Thế đấy, dù sao cánh tay của nó cũng đã mưng mủ lên. Tôi cứ lau máu lau mủ cho nó ngay hôm đau rồi ngày hôm sau nữa, thế rồi máu cứ đen lại. Tôi bảo nó tốt nhất là để tôi xẻo chỗ đó đi, nếu không thì phải cắt bỏ cả cánh tay, nói với nó đến hàng chục lượt như thế, tất cả chúng tôi đều bảo thế, nhưng nó không muốn. Đến ngày thứ năm thì vết thương nặng mùi hôi thối. Chúng tôi ghìm nó xuống và tôi xẻo đi gần hết chỗ thối rữa, nhưng cũng chẳng ăn thua gì. Tôi hiểu rằng cũng chẳng ăn thua gì nhưng một vài người nói cứ thử xem. Tên thầy thuốc da vàng con hoang có đến vài lần nhưng cũng chẳng làm được trò gì. Mặt chuột kéo dài thêm được một hai ngày nữa, nhưng vết thương bị ăn thối vào quá sâu, nó cứ nói lảm nhảm suốt. Chúng tôi buộc phải thắt nó lại cho đến điểm nút."
"Đúng đấy, hoa tiêu ạ" Sonk nói, tay cứ gãi lia lịa.
"Chúng tôi đã phải thắt nút nó lại."
"Thế còn xác nó thì sao?" Blackthorne hỏi.
"Chúng cũng mang lên đồi để thiêu. Chúng tôi muốn chôn cất nó cùng với thuyền trưởng theo đúng nghi lễ tôn giáo nhưng họ không cho. Thế là họ đem theo cả hai."
Căn buồng lặng xuống.
"Anh chưa uống ngụm nào kìa, hoa tiêu."
Blackthorne đưa cốc rượu lên môi nếm thử. Cái cốc nhớp nháp làm anh buồn nôn. Thứ rượu thô làm cháy khô cả họng. Mùi hôi hám của những thân người không tắm rửa, mùi ẩm mốc của những quần áo không giặt giũ làm anh chết ngột.
"Rượu mạnh thế nào, hoa tiêu?" Van Nekk hỏi.
"Tốt, tốt."
"Hãy nói cho anh ấy biết về loại rượu này đi. Bacut!"
"Hê! Anh hoa tiêu ạ, tôi làm một cái nồi cất rượu", Van Nekk có vẻ rất tự hào và tất cả mọi người cũng đều hớn hở.
"Chúng tôi làm bằng cái thùng đựng rượu. Bỏ gạo, hoa quả, đổ nước vào rồi để lên men, để đấy độ khoảng một tuần gì đó, và rồi chỉ cần một chút thủ thuật thôi..." Con người béo mập cười to lên và gãi gãi một cách sung sướng.
"Dĩ nhiên là nếu để đó một năm thì tốt hơn, cho nó dịu ngọt đi, nhưng chúng tôi đã nốc nhanh như..." Lời nói anh cứ kéo dài ra:
"Thế anh không thích à?"
"Ồ, xin lỗi, rượu tốt, tốt." Blackthorne nhìn vào mấy con chấy trong túm tóc thưa thớt trên đầu Van Nếch.
Jan Roper nói như thúc giục:
"Thế còn anh, hoa tiêu, anh cũng tốt chứ, phải không? Về phần anh thế nào?"
Lại một trận lũ câu hỏi ập tới, cho đến khi Vinck quát lên:
"Để cho anh ấy nói nào!" Thế rồi con người mặt căng như da thuộc thốt lên vui sướng:
"Lạy Chúa, khi tôi trông thấy anh đứng ở cửa, tôi cứ ngỡ anh là một trong những thằng khỉ đó, thực thế, thực thế!"
Một loạt giọng nói tán thưởng rộ lên, rồi Van Nekk nói.
"Đúng thế. Cái áo kimono kỳ cục đáng nguyền rủa ấy, trông anh cứ như một mụ đàn bà ấy, hoa tiêu ạ, hoặc như một trong cái đám nửa người nửa ngợm ấy! Một lũ thiểu não thảm hại, hả? Thề có Chúa, hàng đống dân Nhật trông thật thiểu não! Có đứa thì, theo như thằng Croocq nói, thì…
"Rồi những tiếng la hét, đùa cợt, tục tĩu nổi lên, sau đó Van Nekk tiếp tục nói:
"Anh cần phải mặc quần áo của mình vào, hoa tiêu ạ. Anh hãy nghe đây, chúng tôi đã mang quần áo của anh để ở đây rồi. Chúng tôi lái tàu Easmus tới Yedo đấy. Họ kéo tàu tới và chúng tôi được phép mang quần áo của anh lên bờ, chỉ thế thôi chẳng được mang gì hơn. Chúng tôi mang theo quần áo của anh, họ cho phép thế mà, để giữ cho anh. Chúng tôi mang theo túi quần áo của anh, tất cả quần áo đi biển của anh trong đó. Sonk, đi lấy ra đây, hả?"
"Được rồi, tôi sẽ lấy, nhưng lát nữa đã, phải không Baccus? Tôi không muốn bỏ qua điều gì cả."
"Được thôi."
Cái mỉm cười của Jan Roper như căng ra.
"Thanh kiếm và áo kimono, như một dân vô đạo thực thụ! Hay có lẽ anh thích sống như tên vô đạo rồi đó, hả, hoa tiêu?"
"Quần áo kiểu này mát mẻ hơn quần áo của chúng ta", Blackthorne trả lời một cách khó chịu.
"Tôi đã quên mất cách mặc khác thế này rồi. Biết bao nhiêu việc đã xảy ra. Đây là tất cả những gì tôi có được nên đã mặc quen đi rồi. Tôi chẳng bao giờ nghĩ ngợi nhiều về nó. Chắc chắn quần áo kiểu này mặc dễ chịu hơn nhiều."
"Những thanh kiếm đó có phải thực sự là kiếm không?"
"Đúng, dĩ nhiên là thế rồi. Sao vậy?"
"Chúng tôi không được phép mang vũ khí. Bất cứ vũ khí nào." Jan Roper cáu kỉnh:
"Sao chúng nó lại cho phép anh mang kiếm? Thực đúng như bất kỳ một thằng Samurai vô đạo nào, tại sao, hả?"
Blackthorne cười gằn.
"Anh chẳng thay đổi chút nào, phải không, Jan Roper? Vẫn cứ sùng đạo hơn anh đấy! Được rồi, còn nhiều lúc để nói về thanh kiếm của tôi, nhưng trước hết là phải nói những tin Tốt lành đã. Hãy nghe đây. Khoảng một tháng nữa, chúng ta lại ra khơi."
"Lạy chúa tôi, anh nói đúng thế à, hoa tiêu?" Vinck nói.
"Đúng."
Một loạt tiếng hò hét vui sướng ầm lên, rồi những hỏi và trả lời cứ xen nhau hỗn độn.
"Tớ đã bảo là chúng ta sẽ thoát mà. - Tớ đã bảo là Chúa luôn luôn ở bên chúng ta mà! Hãy để cho anh ấy nói, - hãy để cho anh hoa tiêu nói..." Cuối cùng, Blackthorne giơ tay lên.
Anh nhìn về phía những người đàn bà, lúc đó vẫn cứ quỳ gối bất động, càng khúm núm hơn khi thấy anh chú ý tới họ.
"Họ là những người nào thế?"
Sonk cười to:
"Bọn chúng là những con bò lạc của chúng tớ đấy, hoa tiêu ạ. Bọn điếm của chúng tớ đấy, rẻ lắm, lạy Chúa tôi, chưa đáng giá tiền một cái khuy mỗi tuần. Chúng tớ vớ được một đống đầy cả nhà bên này này, và ở trong làng còn khối ra."
"Bọn ấy cứ nhộn nhạo như loài chồn ấy", chú Croocq nói xen vào, rồi Sonk lại nói tiếp.
"Đúng đấy, hoa tiêu ạ. Dĩ nhiên là chúng lùn tịt và chân thì vòng kiềng nhưng đều sung sức và không có bệnh kín. Anh cần một đứa không, hoa tiêu? Chúng tớ đều có giường riêng, không giống như bọn khỉ kia đâu, chúng tớ tất cả đều có giường riêng, chỗ riêng."
"Anh hãy thử dùng con bé Big Arse Mary xem, hoa tiêu, dành riêng cho anh đó." Croocq nói.
Giọng của Jan Roper át tất cả.
"Hoa tiêu không cần đến loại điếm của chúng ta đâu. Anh có riêng rồi, phải không hoa tiêu?"
Nét mặt cả nhóm như bừng sáng lên.
"Có thật thế không, hoa tiêu? Cậu lấy vợ rồi à? Hả, kể cho chúng tớ nghe đi, nào. Bọn khỉ này tốt hơn cả so với từ trước tới nay chứ, phải không, hả?"
"Hãy kể cho chúng tớ nghe về lũ thê thiếp của cậu đi, hoa tiêu!" Sonk lại gãi vào chỗ rận cắn.
"Có nhiều điều phải nói lắm", Blackthorne nói.
"Nhưng chỉ là riêng tư thôi. Càng ít người nghe càng tốt, neh? Cho lũ đàn bà này ra ngoài, ta nói chuyện riêng với nhau thôi."
Vinck hất ngón tay cái về phía họ.
"Cút ra, hai?"
Những người đàn bà cúi chào và lầm bầm những lời cám ơn và xin lỗi rồi bước lẹ ra ngoài, lặng lẽ đóng cửa lại.
"Trước hết nói về cái tàu. Thật không thể nào tin được. Tôi muốn cảm ơn và khen ngợi các bạn, về tất cả những việc đó. Khi về tới nhà, tôi sẽ mời các bạn nhận cho gấp ba lần số tiền thưởng cho những công việc mà các bạn đã làm, và có thêm tiền thưởng đối với..." Anh thấy mọi người cứ nhìn nhau lúng túng.
"Gì thế?"
Van Nekk nói không thoải mái:
"Đó không phải là chúng tôi, anh hoa tiêu ạ. Đó là do những người của Lãnh chúa Toranaga. Họ làm cả đấy. Vinck đã chỉ dẫn cho họ làm, chúng tôi chẳng làm gì cả."
"Chỉ mỗi một mình anh ấy thôi", Sonk nói.
"Johan đã chỉ dẫn cho họ làm."
"Nhưng làm sao mà anh bảo họ, Johan?"
"Trong đám Samurai có một tên nói được tiếng Portugal, thế là chúng tôi trao đổi, chỉ đủ để hiểu nhau nói gì thôi, Samurai đó là Sato Sama, hắn chịu trách nhiệm khi chúng tôi tới đây. Hắn nói ai là sĩ quan và thủy thủ trong số chúng tôi. Chúng tôi đã bảo hắn là có Ginsel, nhưng chủ yếu anh ta là pháo thủ, tôi và Sonk là người..."
"Làm một đầu bếp dầm dề tồi tệ nhất đã..."
"Câm cái miệng đáng nguyền rủa của cậu lại đi, Croocq!"
"Cứt, cứ để thả nổi một mình thì anh chẳng nấu nướng được gì trên bờ cả, lạy Chúa!"
"Thôi cả hai im lặng đi!" Blackthorne nói,
"Johan, tiếp tục đi."
Vinck nói tiếp:
"Sato Sama hỏi tôi xem con tàu bị hỏng gì và tôi bảo hắn là con tàu phải đặt nghiêng đi, vá víu và sửa chữa lại toàn bộ. Họ đã nghiêng con tàu rất tốt, rửa sạch đáy tàu, kỳ cọ cẩn thận như chuồng tiêu của một hoàng tử, cuối cùng thì bọn Samurai là những ông chủ còn những thằng khỉ khác thì làm quằn quật như quỷ dữ, hàng trăm cái quân mắc dịch như thế. Cứt thật, anh hoa tiêu ạ, anh chưa hề bao giờ thấy được bọn người nào làm lụng như chúng đâu!"
"Đúng đấy", Sonk nói.
"Thật cứ như quỷ dữ!"
"Tôi đã làm mọi việc với hết khả năng của mình để đổi lấy cái ngày... ôi lạy Chúa, hoa tiêu ơi, có đúng anh nghĩ là chúng ta có thể thoát được không?"
"Đúng vậy, nếu chúng ta kiên nhẫn và nếu chúng ta…"
"Nếu đúng là ý Chúa, phải không hoa tiêu. Chỉ khi đó thôi."
"Đúng. Có thể là anh nói đúng", Blackthorne trả lời, ngẫm nghĩ không biết vì cớ gì mà Roper lại bị kích động như vậy? Ta cần đến hắn, tất cả mọi người. Và cần được cả Chúa phù hộ.
"Đúng, chúng ta cần có Chúa phù hộ", anh nói rồi quay lại phía Vinck.
"Đáy tàu thế nào?"
"Sạch bong, hoa tiêu ạ. Tôi không ngờ họ lại làm tốt đến như thế. Cái bọn con hoang này thế mà cũng khéo léo như những thợ mộc, thợ đóng tàu và thợ bện thừng ở Holland đấy. Bộ thừng thật hoàn hảo, mọi thứ đều hoàn hảo."
"Buồm thì sao?"
"Họ làm một bộ buồm bằng lụa, bền như vải bố. Thêm một bộ dự trữ nữa. Họ lấy buồm của chúng ta xuống rồi bắt chước như hệt, hoa tiêu ạ. Đại bác thì hoàn hảo hết sức, tất cả đã được đặt trên boong, lại còn thuốc súng và vô khối đạn. Con tàu đã được chuẩn bị sẵn sàng để căng buồm ra khơi khi thủy triều lên, và nếu cần thì ngay đêm nay cũng được. Dĩ nhiên là chưa ra biển nên chúng ta không biết chắc được về những cái buồm đó trong gió lớn ra sao, nhưng tôi dám đánh cuộc với mạng sống của tôi là những chỗ chắp nối của con tàu rất khít y như lần đầu tiên con tàu được thả trượt xuống Zuider Zee, còn tốt hơn nữa là bây giờ các thớ gỗ đều khô ráo cả, thật ta phải cảm ơn Chúa!" Vinck nghỉ lấy hơi rồi hỏi:
"Bao giờ ta ra khơi?"
"Một tháng. Khoảng thế!"
Họ lấy khuỷu tay huých vào nhau, tràn trề hứng khởi và la to lên, mừng hoa tiêu và con tàu.
"Tàu địch ra sao? Có nhiều tàu quanh quẩn đây không? Trị giá thế nào, hoa tiêu?" Ginsel hỏi.
"Nhiều lắm. Vượt cả những ước mơ của các bạn. Chúng ta sẽ giàu có, tất cả."
Lại những tiếng la hét vui sướng.
"Đã đến lúc rồi."
"Giàu có, hả? Tớ sẽ tậu một tòa lâu đài."
"Ôi Chúa Toàn năng, khi ta trở về nhà..."
"Giàu có! Hoan hô anh hoa tiêu!"
"Có nhiều bọn đệ tử của Giáo hoàng để ta giết lắm à? Tốt." Jan Roper nói khẽ,
"Rất tốt."
"Kế hoạch thế nào đây, hoa tiêu?" Van Nekk hỏi, và cả nhóm ngừng nói chuyện.
"Tôi sẽ nêu ra bây giờ đây. Các bạn có bị lính canh theo dõi không? Các bạn có được đi lại tự do quanh đây không, nếu cần phải đi? Thường thì thế nào..."
Vinck nói nhanh xen vào:
"Chúng tôi được đi lại bất cứ nơi nào quanh khu vực trong làng, có lẽ khoảng nửa dặm quanh đây. Nhưng chúng tôi không được phép vào Yedo và không..."
"Không được qua cầu", Sonk nói xen vào đúng lúc.
"Hãy nói cho anh ấy biết về cái cầu đi, Johan!"
"Ôi vì lòng yêu Chúa, tớ đã đi qua cầu đó Sonk ạ. Và hãy vì Chúa, đừng có ngắt lời tớ, anh hoa tiêu ạ, có một cái cầu cách đây khoảng nửa dặm về phía tây Nam. Có nhiều dấu hiệu ghi trên đó. Đó cũng là nơi xa nhất mà chúng tôi được phép đi tới. Chúng tôi không được phép đi qua cầu. Kinjiru, lạy Chúa, Samurai nói thế. Anh có hiểu kinjiru là gì không, hoa tiêu?"
Blackthorne gật đầu nhưng không nói gì.
"Trừ chỗ đó ra, chúng. tôi đi đâu cũng được. Nhưng chỉ đến những chỗ có rào chắn thôi. Quanh đây nửa dặm, chỗ nào cũng có rào chắn. Ôi Chúa ơi… sao mà tin được nhỉ, sắp về nhà rồi!"
"Hãy kể cho anh ấy nghe về lão thầy thuốc, và về..."
"Samurai đã cử thầy thuốc đến đây từng thời gian một, hoa tiêu ạ, chúng tớ phải cởi hết quần áo ra và hắn nhìn vào người chúng tớ..."
"Đúng đấy. Đủ để cho một người phải vãi cứt ra khi thấy một thằng con hoang thuộc giống khỉ vô đạo nhìn chòng chọc vào cái thân hình trần trụi của anh như thế."
"Ngoài cái đó ra, hoa tiêu ạ, chúng không làm phiền nhiễu gì chúng tớ, chỉ trừ..."
"Ấy, đừng có quên lão thầy thuốc đưa chúng ta những gói bột có char bẩn thỉu, bắt phải hòa vào nước nóng uống, nhưng chúng tớ đã quẳng ráo cả đi. Khi chúng ta ốm thì ông bạn già tốt bụng Johan chích máu cho chúng ta là khỏi ngay mà."
"Đúng thế", Sonk nói,
"Chúng tớ quẳng hết cả char đi."
"Ngoài cái đó ra, chỉ trừ...."
"Chúng tớ được may mắn ở lại đây, hoa tiêu ạ, không như lúc đầu."
"Đúng thế. Lúc đầu..."
"Hãy nói cho anh ấy biết về việc kiểm soát đi, Bacut!"
"Tớ đã định nói đây. Hãy vì Chúa, cứ kiên nhẫn đi, để cho anh ấy còn nghe được chứ. Các cậu cứ lải nhải mãi thế thì làm sao tớ kể cho anh ấy nghe được, hả. Rót cho tớ chén rượu đây!" Van Nekk nói khô khốc rồi tiếp tục.
"Cứ mười ngày một lần, có một bọn Samurai tới đây bắt chúng tớ xếp hàng ở ngoài kia rồi đếm. Sau đó họ cho chúng tớ những túi gạo và tiền, tiền đồng. Có đầy đủ mọi thứ, hoa tiêu ạ. Chúng tớ đổi gạo lấy thịt và vải, hoa quả hoặc cái gì khác nữa. Ở đây có đủ mọi thứ và đối với bọn đàn bà thì chúng tớ cần cái gì là có ngay. Lúc đầu chúng tớ..."
"Nhưng cái đó không giống như lúc ban đầu. Hãy kể cho anh ấy nghe đi, Bacut!"
Van Nekk ngồi bệt xuống sàn.
"Cầu Chúa cho con sức khoẻ!"
"Cậu cảm thấy ốm rồi à, ôi cậu trai già nua đáng thương!" Sonk hỏi han ân cần.
"Tốt nhất là đừng có uống thêm nữa, không có lại bị ma ám đấy. Anh hoa tiêu ạ. Cậu ta bị ma ám đấy, mỗi tuần bị một lần. Tất cả chúng tôi đều thế cả."
"Cậu có im mồm đi không để tớ kể cho anh hoa tiêu nghe, hả."
"Ai cơ, tớ ấy à? Tớ có nói câu nào đâu. Tớ có chặn lời của cậu đâu. Đây, rượu của cậu đây!"
"Cám ơn, Sonk. Thế đấy, anh hoa tiêu, đầu tiên là họ nhốt chúng tớ vào một ngôi nhà tại phía Tây thành phố..."
"Gần chỗ cánh đồng ấy."
"Đáng ghét chưa, thôi thế cậu kể tiếp đi, Johan!"
"Được thôi. Lạy Chúa, anh hoa tiêu ạ, thật là khủng khiếp. Không thức ăn, không nước uống và thứ dây đáng nguyền rủa ấy, cứ như sống giữa đồng không mông quạnh, chẳng biết thò mũi vào đâu, không biết đáy ở chỗ nào, làm bất cứ cái gì cũng không thoát khỏi có người nhìn thấy, hả? Đúng vậy đấy, chỉ một tiếng động nhỏ thôi là những kẻ láng giềng đổ xô đến, và bọn Samurai dàn ngay quân ra, có ai muốn những cái bọn con hoang ấy ở xung quanh đâu, hả? Chúng cứ vung những thanh kiếm đáng nguyền rủa của chúng chĩa vào chúng tớ hò hét ầm ĩ lên, bắt chúng tớ phải im. Thế rồi, có một hôm về ban đêm ai đó làm rơi cây nến, thế là toàn thể cái bọn khỉ đó làm náo loạn địa ngục lên vì chúng tớ! Ôi Chúa ơi. Cậu mà được nghe chúng nói nhỉ. Chúng cứ trèo lên vách tường gỗ cùng với những xô nước, điên loạn lên, rít lên, hét lên, chửi ầm lên... Chỉ có mỗi một bức tường mắc dịch cháy đổ xuống thôi... Thế mà có đến hàng trăm đứa cứ bò trườn trên mái nhà như những con rắn. Đồ con hoang. Cậu lại..."
"Cứ tiếp tục đi!"
"Cậu muốn kể à?"
"Cứ nói tiếp đi, Johan, đừng để ý đến hắn. Hắn chỉ là đồ đầu bếp ỉa dây thôi."
"Gì hả?"
"Thôi hãy vì Chúa, bịt mồm lại đi." Van Nekk lại vội kể tiếp.
"Đến ngày hôm sau, anh hoa tiêu ạ, họ bảo chúng tớ rời khỏi ngôi nhà đó đến ở một nhà khác tại khu vực bến tàu. Cũng tồi tệ như thế thôi. Thế rồi vài tuần lễ sau, Johan mò mẫm tới nơi này. Anh ta là người duy nhất trong bọn tớ được phép tới đây, lúc đó là vì chiếc tàu. Họ dẫn anh ta đến đây vào ban ngày, rồi chiều lại trả về. Anh ta đi ra ngoài câu cá, chúng tớ ở chỉ cách khu vực đó có vài trăm thước thôi mà, về phía trên suối... Johan, anh kể cái đó thì tốt hơn."
Blackthorne thấy ngứa ở chỗ chân để trần, anh gãi nhưng không để ý đến. Nhưng cái ngứa càng dữ dội. Anh trông thấy vết rận cắn nổi sần lên trong khi Vinck tiếp tục kể hãnh diện.
"Đúng như Bacut nói đấy, hoa tiêu ạ. Tôi có hỏi Sato Sama là chúng tôi có thể đi lại được không, hắn nói được, tại sao không. Họ thường cho tôi mượn chiếc thuyền nhỏ để đi câu cá giết thời gian. Chính cái mũi của tôi đã dẫn tôi đến nơi này, anh hoa tiêu ạ Cái mũi già nua của tôi đã dẫn đến đây: có máu mà!"
Blackthorne nói:
"Một cái lò sát sinh! Một cái lò sát sinh và thuộc da! Đó là..." Anh dừng lại, bỏ lửng.
"Cái gì cơ? Có điều gì vậy?"
"Đây là làng của người eta à? Lạy Chúa, dân ở đây là eta à?"
"Có gì sai quấy với những dân eta?" Van Nekk hỏi.
"Đúng đấy, họ là dân eta."
Blackthorne xua đám muỗi đang bu đầy bầu không khí, da anh sởn lên.
"Những con vật hút máu đáng nguyền rủa này, chúng thật là hôi, đúng không? Ở đây có nhà thuộc da, đúng không?"
"Đúng. Cách đây vài phố. Sao cơ?"
"Chẳng sao cả. Lúc nãy tôi không ngửi thấy gì. Thế thôi."
"Thế còn dân eta thì sao?"
"Tôi... tôi cũng không hiểu nữa, thật là ngốc nghếch cho tôi. Nếu tôi được trông thấy một trong số những người tôi biết qua kiểu để tóc ngắn của họ. Còn qua đàn bà thì các bạn chằng bao giờ biết được đâu. Thôi, xin lỗi. Tiếp tục câu chuyện đi, Vinck..."
"Được Thế rồi họ nói rằng..."
Bỗng Jan Roper ngắt lời:
"Đợi chút đã, Vinck! Có cái gì sai quấy, anh hoa tiêu. Những tên eta làm sao?"
"Đó là vì người Nhật nghĩ về họ khác. Họ là những người làm nghề đồ tể, lột da súc vật và đào huyệt chôn người." Anh cảm thấy có những đôi mắt nhìn chăm chú vào mình, đặc biệt đôi mắt của Jan Roper.
"Người eta làm nghề lột da", anh nói, cố giữ cho giọng nói được bình thường,
"Họ giết những con ngựa già, những con bò già và chôn người chết."
"Nhưng có gì sai quấy với cái đó. Hoa tiêu? Bản thân anh đã từng tự tay chôn hàng tá người rồi, cho vào vải liệm, rửa ráy cho ho. - Chúng ta đều đã từng thế, phải không? Chúng ta cũng là anh hàng thịt đối với những tảng thịt mà chúng ta vẫn thường ăn. Chính Ginsel đây cũng đã từng làm người treo cổ. Thế thì có gì sai quấy với cái đó?"
"Chẳng có gì cả." Blackthorne nói, cũng biết rằng đó là sự thực nhưng vẫn cảm thấy nhơ nhuốc thế nào ấy.
Vinck lầm bầm:
"Dân eta là những kẻ vô đạo, nhưng còn tốt hơn cả những dân vô đạo khác ở đây. Họ còn gần giống như chúng ta hơn là bọn con hoang kia. Thật may mắn chúng ta đã được ở đây, hoa tiêu ạ. Thịt tươi thì không thành vấn đề rồi, hoặc là mỡ bò, họ cho chúng tôi thoải mái."
"Cái đó đúng đấy. Nếu như anh đã từng sống với dân eta, hoa tiêu ạ..."
"Lạy Chúa, anh hoa tiêu phải sống giữa bọn con hoang, suốt từ bấy đến nay! Anh ấy không được biết cái gì tốt hơn thế. Có đi tìm Big Arse Mary không đây, anh Sonk?"
"Hay là Twicklebum?"
"Cứt, không đâu, đừng tìm cái con đĩ già ấy. Anh hoa tiêu phải có loại đặc biệt cơ. Ta hãy đi hỏi mama-san..."
"Tớ đánh cuộc là anh ấy đã đói meo cả bụng ra rồi! Hê, Sonk, cắt cho anh ấy miếng thịt."
"Thêm ít rượu mạnh nữa."
"Ba khoanh bánh cho anh hoa tiêu..."
Trong không khí vui vẻ rộ lên, Van Nekk vỗ vai Blackthorne:
"Cậu đã trở về nhà, anh bạn già của tôi ạ. Thế là bây giờ cậu đã trở lại, những lời cầu nguyện của chúng tớ đã được đáp ứng và tất cả mọi thứ trên thế giới này đều tốt đẹp. Cậu đã trở về nhà, anh bạn ạ. Nghe đây, hãy lấy cái giường của tớ ra mà nằm."
Blackthorne vui vẻ vẫy tay lần cuối. Những tiếng trả lời vang lên trong đêm tối từ phía xa kia, phía bên kia chiếc cầu nhỏ. Thế rồi anh quay lại, lòng nhiệt tình gắng gượng của anh tan biến đi, anh đi vòng khúc đường quanh, khoảng mười vệ sĩ Samurai vây quanh anh.
Trên đường về tòa lâu đài, trí óc anh xúc động. Không có gì sai quấy đối với dân eta và mọi thứ đều sai quấy với dân eta, đó là những thủy thủ của mình, những người của mình, còn đây là những dân ngoại đạo, ngoại quốc và là kẻ thù...
Phố xá, đường đi lối lại và cầu cứ qua đi trong mờ mịt. Thế rồi, anh nhận thấy bàn tay của anh đang thủ trong áo kimono bị ngứa. Anh gãi và dừng lại trên đường.
"Những con vật trời đánh bẩn thỉu này..." Anh cởi dây lưng, giật cái áo kimono ẩm ướt, và do nó đã bẩn, anh liệng xuống cống.
"Dozo, nan desu ka. Anjin-san?", một Samurai hỏi.
"Nani mo!" Chẳng sao cả, lạy Chúa! Blackthorne tiếp tục bước đi mang theo thanh kiếm.
"Ah! Eta! Wakari masu! Gomen! nasai, "nhóm Samurai thầm thì với nhau nhưng anh không để ý đến họ.
Thế tốt hơn, anh nghĩ nhẹ nhàng thoải mái, không cảm thấy mình hầu như hoàn toàn trần trụi, chỉ nhận thấy không bị ngứa ngáy khó chịu nữa vì cái áo kimono đầy rận đã cởi ra rồi.
Lạy Chúa, làm sao ta được tắm ngay một cái bây giờ!
Anh đã kể lại cho các thủy thủ của anh những bước đường phiêu lưu mà anh sắp gặp phải, nhưng không kể là anh đã trở thành Samurai và Hatamoto, cũng không nói với họ là anh được Toranaga che chở, hoặc về Fujiko, và cả đến Mariko. Anh đã không kể cho họ nghe về chuyện họ sắp bắt buộc phải đổ bộ lên Nagasaki và đưa chiếc Black Ship đi trong giông bão, hay đến chuyện anh sẽ trở thành người đứng đầu các Samurai. Có thể là sau này hãy hay, anh mệt mỏi nghĩ. Và tất cả những chuyện còn lại. Liệu ta có kể với họ về Mariko-san không?
Tiếng guốc gỗ của anh đập ròn rã trên ván của cái cầu thứ nhất. Các lính canh Samurai nhoài người ra nhìn, khi thấy anh qua, họ cúi đầu chào lễ phép. Họ cũng hầu như trần trụi, chăm chú nhìn anh, bởi vì anh chính là tên rợ kỳ quái lại được Đại nhân Toranaga sủng ái một cách đáng ngạc nhiên. Thật không thể tin được, Đại nhân Toranaga đã ban cho người này vinh dự được làm hatmoto và Samurai, một vinh dự mà tù trước tới nay chưa hề ban cho một tên rợ nào.
Tại cổng chính phía Nam của tòa lâu đài đã có một người dẫn đường khác đợi anh. Anh được tháp tùng cho đến tận nơi ở của mình trong dinh sau. Anh được chỉ định ở trong một căn phòng tại một trong những nhà khá chắc chắn nhưng trông cũng hấp dẫn. Tuy nhiên, anh lễ phép khước từ việc trở lại ngay nơi đó.
"Trước hết phải tắm đã anh bảo người Samurai.
"A, tôi hiểu rồi. Ông thật cẩn trọng. Nhà tắm ở phía này, thưa ông Anjin-san. Đúng vậy, đêm nay nóng quá, neh? Và tôi được nghe là ông vừa tới chỗ những tên bẩn thỉu. Những vị khác trong nhà sẽ hoan nghênh việc làm có ý thức của ông. Thay mặt họ tôi xin cám ơn ông."
Blackthorne không hiểu hết những lời nói đó nhưng anh nắm được ý nghĩa.
"Những kẻ bẩn thỉu, đó là để chỉ vào những người của ta nữa, chúng ta, chứ không phải chúng nó, những tiện dân."
"Xin chào ông, Anjin-san", người phụ trách phòng tắm nói. Ông ta là một người trung niên to lớn có cái bụng to tướng và đôi tay nổi bắp. Người hầu gái vừa mới đánh thức ông ta dậy để báo có một người khách muộn màng tới tắm. Ông ta vỗ tay vào nhau. Các cô hầu tắm chạy đến. Blackthorne đi theo họ tới phòng chà xát, họ rửa ráy và xát xà phòng gội đầu cho anh. Anh bảo họ làm lại lần nữa. Sau đó anh bước vào bể, tắm mình vào làn nước ấm làm êm dịu thần kinh.
Lát sau, những cánh tay khỏe mạnh giúp anh bước ra khỏi bể tắm, bôi dầu thơm vào da thịt anh, xoa bóp cổ và các bắp thịt, rồi dẫn anh tới phòng nghỉ ngơi. Họ đưa anh mặc cái áo vải kimono đã được giặt giũ phơi phóng cẩn thận. Anh thở ra một hơi dài khoan khoái, rồi nằm xuống.
"Dozo gomen nasai Anjin-san, trà?"
"Hai, Domo."
Trà được mang tới. Anh bảo với người hầu gái đêm nay anh sẽ ở đây, không cần phải về nơi nghỉ của anh. Thế rồi một mình một bóng trong tĩnh lặng, anh nhấm nháp vị trà, cảm thấy như mình được thanh lọc.
"Cái loại có char không bẩn thỉu..." anh nghĩ tới câu nói khó chịu.
"Hãy kiên nhẫn nào, đừng nên để cái đó làm nhiễu loạn sự hài hòa trong tâm hồn mình", anh nói to lên thành tiếng.
"Họ cũng chỉ là những kẻ ngu dốt đáng thương thôi, chẳng biết gì hơn. Trước đây anh cũng thế. Thôi đừng để ý đến cái đó, bây giờ anh đã có thể chỉ bảo cho họ được rồi, neh?"
Anh gạt những ý nghĩ đó ra khỏi đầu óc, lấy tay với quyển từ điển. Nhưng đêm nay, đêm đầu tiên kể từ khi có cuốn sách này, anh cẩn thận đặt nó xuống bên cạnh rồi thổi tắt ngọn nến. Ta mệt quá rồi, anh tự bảo.
Nhưng cũng không đến nỗi quá mệt để trả lời cho câu hỏi giản đơn, anh thầm nói: Có thực họ là những kẻ ngu ngốc hay không, hay chính anh mới là kẻ ngu ngốc?
Ta sẽ giải đáp cái đó sau, khi nào đến lúc cần thiết. Bây giờ thì lời giải đáp không phải là quan trọng. Bây giờ ta chỉ biết ta không cần đến họ ở cạnh ta.
Anh trở mình, xếp vấn đề đó vào một chỗ trong bộ óc và ngủ.
Anh tỉnh dậy, tươi tắn, một áo kimono, một cái khố và tabi đã được đặt sẵn. Bao kiếm của anh đã được đánh bóng. Anh nhanh chóng mặc quần áo. Bên ngoài, các Samurai bảo vệ trong nhà đã đứng chờ. Họ xoạc cẳng cúi chào anh.
"Chúng tôi là vệ sĩ của ông hôm nay thưa Anjin-san."
"Cám ơn. Đến chỗ tàu chứ?"
"Vâng. Giấy thông hành của ông đây."
"Tốt. Cám ơn. Tôi có thể biết tên ông được không?"
"Musashi Mitsutoki."
"Cám ơn. Masashi-san. Đi thôi chứ?"
Họ đi xuống chỗ bên tàu. Con tàu Erasmus được neo chặt trên mặt biển, cách đáy cát khoảng 3 fanthom đơn vị đo độ sâu ở biển, bằng 6 bộ - mỗi bộ hơn 30 xăng-ti-mét Sàn tàu trông thật thích mắt. Anh lặn xuống bên sườn tàu rồi bơi dưới đáy tàu. Rong biển rất thưa thớt và chỉ có vài con sò quanh đây thôi. Bánh lái thật là tốt. Trong khoang chứa đạn dược sạch sẽ và khô ráo, anh lấy đá lửa thử đánh vào một nhúm thuốc súng. Nó bốc cháy ngay và cháy hết hoàn toàn.
Cao vút trên ngọn cột buồm chính, anh quanh sát xem có vết nứt nào không. Tất cả các cột buồm khác và cột leo đều hoàn hảo, anh không nhìn thấy vết nứt nào. Một số dây thừng buộc vào thừng kéo, vải phủ nối với nhau không được đúng lắm, nhưng chỉ cần nửa tiếng là sửa lại được ngay thôi.
Một lần nữa bước lên boong tàu phía sau, anh tự thưởng cho mình một nụ cười.
"Thật là vững chắc như là một…một cái gì nhỉ?" Anh không nghĩ ra được là cái gì, nên anh cười lớn rồi lại bước xuống khoang tàu. Trong cabin của anh, anh cảm thấy ngỡ ngàng. Và rất cô đơn nữa. Thanh kiếm của anh được đặt trên giường. Anh nâng kiếm lên, rút lưỡi kiếm Oil Seller ra khỏi vỏ. Kỹ thuật rèn kiếm thật tinh xảo, lưỡi kiếm thật hoàn hảo. Nhìn thanh kiếm lòng anh hứng khởi, vì quả thật nó là một tác phẩm nghệ thuật. Nhưng cũng là một nghệ thuật đưa đến cái chết, anh thường nghĩ như vậy khi huơ kiếm lên trong vầng ánh sáng.
Nhà ngươi đã gây nên cái chết cho bao người từ hai trăm năm nay rồi? Còn bao nhiêu người gục ngã nữa cho đến khi chính nhà ngươi gẫy gục? Phải chăng những thanh kiếm cũng có riêng đời sống của chúng như Mariko nói? Mariko. Nàng bây giờ ra sao rồi.
Thế rồi bất chợt anh nhìn thấy bóng cái tủ hộc trên tàu phản ánh trong nước thép của thanh kiếm làm cho anh quên đi nỗi buồn vừa chợt đến.
Anh cho thanh kiếm Oil Seller vào bao, thận trọng tránh không để ngón tay sờ vào lưỡi kiếm, vì tục lệ nói rằng chỉ cần chạm nhẹ tay vào đó thôi là làm hỏng đi cái vẻ hoàn hảo của nó.
Anh tựa lưng vào thành giường, mắt nhìn vào cái tủ rỗng.
"Tập nhật ký hàng hải ra sao rồi? Và cả những dụng cụ đi biển nữa?" Anh lên tiếng hỏi cái hình bóng của anh hiện lên trên mặt cái đèn bằng đồng mà người ta cũng đánh bóng kỹ càng như mọi thứ khác. Và anh nhìn thấy chính anh trả lời.
"Anh phải đem bán những cái đó ở Nagasaki khi cùng đi với thủy thủ của anh. Và phải bất giữ Rodrigues. Đúng. Anh phải bắt giữ hắn trước khi xảy ra trận đánh. Neh?"
Anh nhìn thấy bóng mình nở một nụ cười.
"Có thật chắc là Toranaga sẽ để yên cho anh đi không, trả lời đi?"
"Có chứ", anh trả lời với vẻ hoàn toàn tin tưởng.
"Dù ông ta có đi đến Osaka hay không, ta cũng sẽ đạt được cái gì ta muốn. Và ta sẽ mang theo cả Mariko nữa."
Vẻ hài lòng, anh buộc thanh kiếm vào dây lưng, bước lên boong tàu và chờ cho đến khi cánh cửa khép kín lại.
Khi trở về đến lâu đài, mặt trời còn chưa đứng bóng, vì vậy anh đi về phía khu nhà của anh để ăn trưa. Bữa ăn gồm có cơm, hai suất cá nướng cùng với đậu nành mà anh đã dạy đầu bếp riêng của anh nướng trên than. Một chai nhỏ rượu sake rồi đến trà.
"Anjin-san?"
"Hai?"
Cánh shoji mở ra. Fujiko cúi chào, miệng mỉm cười e thẹn.
Bạn cần đăng nhập để bình luận