Shogun Tướng Quân

Chương 52

Trên những con đường đông đúc của Osaka chạy ven biển, sau cuộc hành trình dài bằng chiếc galleon một lần nữa Blackthorne lại cảm thấy vẫn cái sức nặng như muốn đè bẹp của thành phố y như lần đầu tiên anh tới đây. Tai phun đã tàn phá nhiều vùng và vài khu vực vẫn còn đen sì sau những vụ hỏa hoạn nhưng thành phố vẫn giữ hầu như nguyên vẹn cảnh bao la của nó và vẫn bị lâu đài ngự trị. Ngay từ xa như thế này, cách hơn một hải lý, anh vẫn nhìn thấy cái vành đai khổng lồ của tường thành thứ nhất, những bức tường có lỗ châu mai lừng lững, tất cả như bị cái vọng lâu ấp ủ đầy tai họa làm cho lùn xuống, bé lại.
"Trời ơi", Vinck đứng bên cạnh anh tại mũi thuyền, lo lắng nói:
"Làm sao lại có thể to đến như thế được? So ra, Amsterdam chỉ là một con ruồi."
"Đúng. Bão tố đã phá hoại thành phố, nhưng không đến nỗi tệ hại lắm. Không gì có thể đụng chạm được tới tòa thành."
Tai phun đã từ phía Tây Nam ập tới cách đây hai tuần. Họ đã thấy rất nhiều dấu hiệu báo trước: trời thấp, gió to từng cơn, mưa, và họ đã phải cho chiếc galleon chạy vào cảng an toàn đợi cho cơn bão qua đi. Họ đã phải đợi năm ngày. Bên ngoài cảng, đại dương cuộn sóng bạc đầu, gió thổi mạnh, dữ dội xưa nay Blackthorne chưa từng thấy bao giờ.
"Trời ơi", Vinck lại nói.
"Ước gì ta được về nhà. Lẽ ra ta đã ở nhà cách đây một năm rồi."
Blackthorne đã đem Vinck theo từ Yokohama, còn những người khác thì anh đã cho về Yedo, để chiếc Erasmus bỏ neo yên ổn ở cảng, được canh gác an toàn dưới sự chỉ huy của Naga. Thủy thủ của anh sung sướng ra đi, cũng như anh sung sướng không còn phải nhìn thấy họ nữa. Đêm đó đã có thêm những trận cãi nhau và tranh chấp hung hăng về chỗ vàng của tàu. Tiền là tiền của công ty, không phải tiền của anh. Van Nekk là thủ quỹ của chuyến đi và thương nhân chính, cùng với thuyền trưởng có quyền hạn hợp pháp đối với chỗ tiền đó. Sau khi đếm đi đếm lại và thấy đủ, trừ một nghìn đồng. Van Nếch, được Jan Roper ủng hộ, đã tranh cãi về số tiền anh có thể đem đi để mộ người mới.
"Ông hoa tiêu, ông muốn nhiều quá đấy! Phải trả cho chúng ít hơn!"
"Đức Chúa Trời ơi! Cần bao nhiêu cũng phải trả. Tôi cần phải có thủy thủ và pháo thủ." Anh đấm xuống mặt bàn ở cabin lớn.
"Nếu không làm sao chúng ta có thể về nước được?"
Sau đó anh đã thuyết phục được họ để cho anh lấy đủ tiền. Anh cảm thấy bực mình vì họ đã làm anh mất bình tĩnh với các chuyện cãi nhau vụn vặt. Ngày hôm sau anh đã cho họ lên thuyền trở về Yedo, lấy ra một phần mười toàn bộ chỗ tiền để cho họ chia nhau gọi là truy lĩnh, chỗ tiền còn lại được giữ ở trên thuyền.
"Làm sao chúng tôi biết được ở đây thì an toàn?" Jan Roper cau có hỏi.
"Thế thì ông ở lại mà canh giữ!"
Nhưng trong bọn họ chẳng ai muốn ở lại trên thuyền. Vinck đồng ý đi với anh.
"Tại sao lại hắn, ông hoa tiêu?" Van Nekk hỏi.
"Vì ông ta là thủy thủ và tôi cần được sự giúp đỡ."
Blackthorne mừng không còn phải trông thấy họ nữa. Ra tới biển khơi, anh bất đầu huấn luyện Vinck làm cho hắn theo cung cách người Nhật. Vinck kiên nhẫn chịu đựng việc đó, hắn tin ở Blackthorne vì đã nhiều năm cùng đi biển với anh nên biết rõ bản lĩnh của anh.
"Ông hoa tiêu, vì ông tôi sẽ tắm rửa hàng ngày nhưng tôi thà chịu trời đánh thánh vật chứ tôi không có dùng cái bộ đồ ngủ kinh tởm ấy đâu!"
Được mười ngày thì Vinck đã vui vẻ quàng dây rọi thăm dò độ sâu, mình trần trùng trục, bụng thắt cái thắt lưng da to bản, dao găm trong bao cài ở phía sau và một khẩu súng ngắn của Blackthorne trao cho nhét kín trong chiếc áo sơ mi rách nhưng sạch sẽ.
"Chúng ta không phải đi đến lâu đài, có phải không ông hoa tiêu?"
"Không."
"Trời đất ơi... tôi không muốn đến gần cái nơi chết tiệt ấy!"
Trời đẹp, mặt trời lên cao tỏa sáng lung linh trên mặt biển lặng. Các tay chèo vẫn khỏe và kỷ luật.
"Vinck... chỗ phục kích ở chỗ kia kìa!"
"Trời đất ơi, hãy nhìn những bãi cạn kìa!"
Blackthorne đã kể cho Vinck nghe về cuộc thoát hiểm gay go của anh, những ngọn lửa tín hiệu trên các tường thành, những đống xác chết trên bờ, chiến thuyền địch xông tới anh.
"A! Anjin-san." Yabu tới chỗ họ.
"Tốt, neh?" Lão trỏ cảnh tàn phá.
"Không tốt, Yabu Sama."
"Đó là kẻ thù, neh?"
"Dân chúng không phải là kẻ thù. Chỉ có Ishido và Samurai là kẻ thù, neh?"
"Lâu đài là kẻ thù." Yabu đáp, phản ánh nỗi lo ngại của lão và của mọi người trên thuyền.
"Ở đây mọi thứ đều là kẻ thù."
Blackthorne nhìn theo Yabu đi ra phía mũi thuyền, gió thổi phần phật chiếc kimono trên thân hình chắc nịch của lão.
Vinck hạ thấp giọng:
"Tôi muốn giết cái thằng chó đẻ này, ông hoa tiêu ạ."
"Phải. Tôi cũng không quên chuyện Pieterzoon đâu, đừng lo."
"Tôi cũng thế. Có Chúa Trời chứng giám! Ông nói được tiếng của chúng, tôi phục quá. Nó nói gì thế?"
"Nó chỉ tỏ ra lễ phép thế thôi."
"Kế hoạch là thế nào?"
"Chúng ta cập bến và đợi. Nó sẽ đi khoảng một hai ngày còn chúng ta thì nằm im đợi. Toranaga có nói ông ta đã gửi thư xin giấy thông hành mà chúng ta cần, nhưng dù thế, chúng ta vẫn cứ phải nằm im ở trên thuyền." Blackthorne quan sát tàu bè đi lại và mặt nước nhưng không thấy có gì nguy hiểm. Nhưng anh vẫn bảo Vinck.
"Tốt hơn cả là cứ dò độ sâu đi, để đề phòng bất trắc."
"Vâng."
Yabu chăm chú nhìn Vinck thả dây rọi một lát rồi lững thững đi lại chỗ Blackthorne.
"Anjin-san, có lẽ ông nên lấy chiếc galleon mà đi tới Nagasaki thì hơn. Đừng đợi, được không?"
"Được thôi", Blackthorne nhũn nhặn nói, không đớp mồi nhử.
Yabu cười:
"Tôi rất thích ông, Anjin-san! Nhưng xin lỗi ông mà một mình thì chết sớm thôi. Nagasaki là nơi không tốt cho ông."
"Osaka cũng không tốt... đâu đâu cũng không tốt!"
"Karma" Yabu lại mỉm cười. Blackthorne làm ra bộ cũng vui vẻ.
Hai người đã nhiều lần có những cuộc trò chuyện kiểu đó trong suốt cuộc hành trình. Blackthorne đã biết được nhiều về Yabu. Anh càng thêm căm ghét lão, càng không tin lão, càng kính trọng lão và biết rằng karma của anh và của lão mắc míu với nhau.
"Anjin-san, Yabu-san đúng", Uraga có lần nói.
"Đại nhân có thể che chở cho ông ở Nagasaki, nhưng tôi thì không làm được."
"Vì người bác của ông là Đại nhân Harima ư?"
"Vâng. Có lẽ tôi đã bị đặt ra ngoài vòng pháp luật rồi, neh? Bác tôi là người Cơ đốc giáo... tuy tôi cho rằng ông ta chỉ là Cơ đốc giáo gạo."
"Thế nghĩa là thế nào?"
"Nagasaki là lãnh địa của ông ấy. Nagasaki có một cảng lớn trên bờ biển Kyushu nhưng không phải loại cảng tốt nhất. Cho nên ông ta hiểu ra ngay, neh? Ông ta trở thành tín đồ Cơ đốc giáo và ra lệnh cho tất cả các chư hầu của ông ta phải trở thành tín đồ Cơ đốc giáo, ra lệnh cho tôi theo Cơ đốc giáo và vào trường Dòng rồi nhờ tôi đi làm một trong những phái viên Cơ đốc giáo sang yết kiến Giáo hoàng. Bác tôi cấp đất cho các tu sĩ dòng Temple và không biết ông nói như thế nào nhỉ... ve vãn, nịnh bợ họ. Nhưng trong thâm tâm ông ta vẫn chỉ là người Nhật."
"Các tu sĩ dòng Temple có biết những điều ông nghĩ không?"
"Tất nhiên là biết."
"Họ có tin vào các tín đồ Cơ đốc giáo gạo không?"
"Họ không nói cho những người cải đạo chúng tôi biết họ thực sự tin cái gì, thưa Anjin-san. Và phần nhiều họ cũng chẳng nói cho nhau biết nữa kia. Họ được huấn luyện để giữ bí mật, sử dụng bí mật, đón nhận bí mật, nhưng không bao giờ tiết lộ bí mật. Về mặt này thì họ rất Nhật Bản."
"Uraga-san, ông nên ở lại Osaka thì hơn."
"Xin lỗi Đại nhân, tôi là chư hầu của Đại nhân. Nếu Đại nhân đi Nagasaki, tôi cũng đi."
Blackthorne biết rằng Uraga đã trở thành một trợ thủ vô giá. Hắn đã tiết lộ nhiều bí mật của dòng Temple: họ thương lượng buôn bán như thế nào, tại sao và lúc nào, những hoạt động nội bộ của họ và những mưu đồ quốc tế không thể tưởng tượng nổi của họ. Và Uraga cũng cho anh biết rất nhiều về Harima và Kiyama, các Daimyo Cơ đốc giáo suy nghĩ như thế nào và tại sao có thể họ sẽ đứng về phe Ishido. Lạy chúa, giờ đây ta đã biết được nhiều điều thật sự là vô giá ở London, anh nghĩ, và vẫn còn biết bao điều cần biết. Làm thế nào có thể truyền về nước những hiểu biết này? Chẳng hạn về việc buôn bán của Trung Hoa, chỉ riêng buôn bán lụa với Nhật Bản thôi, cũng giá trị hàng chục triệu bảng vàng trong một năm và ngay lúc này đây, dòng Temple có một tu sĩ công khai của họ tại triều đình Thiên Hoàng Trung Hoa ở Bắc Kinh, được phong tước, và là một người tin cẩn của triều đình, nói tiếng Trung Hoa rất giỏi. Giá mà ta gửi được một bức thư... giá mà ta có được một phái viên.
Đáp lại tất cả những thông tin nhận được, Blackthorne bắt đầu dạy Uraga về hàng hải, về sự phân biệt lớn trong tôn giáo và về nghị viện. Anh cũng dạy hắn và Yabu cách bắn súng. Cả hai đều là những học trò giỏi. Uraga là người tốt, anh nghĩ, không có vấn đề gì cả. Trừ có điều hắn xấu hổ vì không có cái đuôi sam của Samurai. Nhưng tóc sẽ mọc nhanh thôi.
Có tiếng kêu báo hiệu của người gác đằng lái.
"Anjin-san!" Viên thuyền trưởng Nhật Bản trỏ về phía trước, một chiếc xuồng lịch sự hai mươi người chèo đang tới gần ở mạn bên phải. Ở cột buồm chính lá cờ hiệu của Ishido. Bên cạnh là cờ hiệu của Hội đồng Nhiếp chính, đúng là cờ hiệu mà Nebara Jozen cùng người của hắn đã giương lên khi đến Anjiro, đến nơi chúng bị giết chết.
"Ai thế?" Blackthorne hỏi, anh cảm thấy mọi người trên tàu đều căng thẳng, mọi con mắt đều căng ra nhìn ra xa.
"Xin lỗi, tôi chưa nhìn rõ", viên thuyền trưởng nói.
"Yabu-san?"
Yabu nhún vai.
"Một quan chức nào đó."
Chiếc xuồng đến gần hơn, Blackthorne trông thấy một người đứng tuổi ngồi dưới một cái trướng ở đuôi xuồng, mặc lễ phục sang trọng với chiếc áo choàng bên ngoài vai như hai cái cánh. Không đeo kiếm. Vây quanh hắn là đám Samurai Áo Xám của Ishido.
Người chỉ huy trống ra lệnh ngừng trống để chiếc xuồng áp sát mạn thuyền. Một số người chạy tới đỡ viên quan lên thuyền. Một hoa tiêu Nhật Bản nhảy lên theo và sau nhiều lần chèo đi chèo lại, anh ta chính thức đảm nhiệm việc điều khiển chiếc galleon.
Yabu và viên quan chào nhau rất trịnh trọng và nghi thức. Cuối cùng, họ ngồi đệm theo ngôi thứ chênh lệch nhau, viên quan chiếm chỗ thuận lợi nhất ở phía lái. Các Samurai của Yabu và bọn Áo Xám ngồi xếp bằng hoặc quỳ trên sàn thuyền vây quanh hai người ở những vị trí thấp kém hơn.
"Hội đồng chào mừng ngài, thưa ngài Kasigi Yabu, nhân danh Đức Thiên Hoàng", viên quan nói. Ông ta thấp lùn, nhưng to bè bè, có phần nào suy nhược, ông ta là cố vấn cao cấp của các Nhiếp chính về lễ tân và cũng có phẩm tước của triều đình. Tên ông ta là Ogaki Takamoto hoàng thân hàng thứ bảy và chức vụ của ông ta là làm một trong những người trung gian liên lạc giữa triều đình của Thiên Hoàng và các Nhiếp chính. Răng ông ta nhuộm đen theo tập quán ưa thích hàng bao thế kỷ nay của các triều thần của nhà vua.
"Xin cảm tạ Hoàng thân Ogaki. Được nhân danh Đại nhân Toranaga tới đây quả là một đặc ân", Yabu nói, rất cảm kích trước vinh dự lớn của lão.
"Vâng, tôi tin chắc là như vậy. Tất nhiên, Đại nhân tới đây cũng còn nhân danh cá nhân Đại nhân nữa, neh?" Ogaki lạnh nhạt nói.
"Tất nhiên", Yabu đáp.
"Khi nào Đại nhân Toranaga tới? Xin thứ lỗi, nhưng tai phun đã làm tôi chậm trễ mất năm ngày và từ khi lên đường, tôi không được tin tức gì cả."
"À vâng, tai phun. Vâng. Hội đồng rất vui mừng được biết trận bão đã không gây gì cho Đại nhân." Ogaki húng hắng ho.
"Còn về Chúa công của Đại nhân, tôi lấy làm tiếc xin báo rằng ông ấy thậm chí cũng chưa tới được Odaoara. Đã có nhiều lần trì hoãn bất tận, lại thêm đau ốm nữa. Thật đáng tiếc, neh?"
"Ồ! vâng, rất... tôi tin là không có gì nghiêm trọng chứ?" Yabu hỏi nhanh, hết sức mong là mình được biết bí mật của Toranaga.
"Không, may mắn là không có gì nghiêm trọng cả", lại tiếng ho khan.
"Đại nhân Ishido hiểu rằng Chúa công của Đại nhân sẽ tới Odaoara ngày mai."
Yabu tỏ ra ngạc nhiên một cách đúng mực.
"Khi tôi lên đường, cách đây hai mươi mốt ngày, mọi việc đã chuẩn bị xong xuôi để Đại nhân Toranaga đi ngay, nhưng Đại nhân Hiromatsu lại ốm. Tôi biết Đại nhân Toranaga hết sức lo lắng nhưng rất nóng lòng muốn lên đường ngay... cũng như tôi rất nóng lòng bắt tay chuẩn bị mọi thứ đón tiếp Đại nhân tới đây."
"Mọi thứ đã được chuẩn bị xong xuôi rồi." Viên quan nói.
"Tất nhiên Hội đồng sẽ không phản đối nếu tôi xin kiểm tra mọi sự sắp xếp, neh?" Yabu tỏ ra cởi mở.
"Điều cốt yếu là nghi lễ phải xứng đáng với Hội đồng và với dịp này, neh?"
"Xứng đáng với đức Thiên Hoàng. Đây là Thiên Hoàng triệu tập."
"Tất nhiên, nhưng..." Cảm giác khoan khoái của Yabu tắt ngấm.
"Hoàng thân muốn tôi... muốn nói là đức Thiên Hoàng sẽ có mặt?"
"Thiên Hoàng đã chấp nhận thỉnh cầu của các Nhiếp chính là sẽ đích thân nhận sự thần phục của Hội đồng mới, của tất cả các Daimyo chủ yếu, kể cả Đại nhân Toranaga cùng gia đình Và chư hầu của Đại nhân. Các cố vấn cao cấp của Thiên Hoàng đã được yêu cầu chọn một ngày lành cho một... một buổi lễ như thế. Đó là ngày hai mươi hai của tháng này, năm thứ năm của kỷ nguyên Kêichô."
Yabu kinh ngạc.
"Mười chín ngày nữa?"
"Đúng ngọ." Ogaki kiểu cách lấy một chiếc mùi xoa giấu trong ống tay áo và hỉ mũi.
"Xin lỗi Đại nhân. Vâng, đúng giờ ngọ, giờ đại cát. Đại nhân Toranaga đã được sứ giả của Thiên Hoàng thông báo cho biết cách đây mười bốn ngày. Sự kính cẩn vâng lệnh ngay tức khắp của Đại nhân đã tới các Nhiếp chính cách đây ba ngày." Ogaki lấy ra một cuộn giấy nhỏ.
"Đây là giấy mời Đại nhân Kasigi Yabu tới dự lễ."
Yabu mất tinh thần khi nhìn thấy dấu ấn hình hoa cúc mười sáu cánh của Thiên Hoàng và lão biết rằng không một ai, ngay cả Toranaga có thể khước từ một lệnh triệu tập như thế. Khước từ sẽ là một sự lăng nhục không thể hình dung nổi đối với Thiên Hoàng, một sự nổi loạn công khai và do tất cả đất đai đều thuộc quyền Thiên Hoàng đang trị vì sẽ dẫn đến việc tước bỏ ngay tức khắc các đất đai, cộng thêm lệnh của Thiên Hoàng phải seppuku ngay lập tức, do các Nhiếp chính ban ra nhân danh Thiên Hoàng, và cũng được đóng dấu Đại ấn. Một lời mời như thế là tuyệt đối và phải được tuân theo.
Yabu cuồng cuồng cố lấy lại bình tĩnh.
"Xin lỗi, Đại nhân không được khỏe ư?" Ogaki sốt sắng hỏi.
"Xin lỗi", Yabu lắp bắp,
"Nhưng trong những giấc mơ ngông cuồng nhất... không ai lại có thể tưởng tượng được đức Thiên Hoàng sẽ... sẽ ban cho chúng tôi một vinh dự lớn như thế, neh?"
"Đúng thế, ồ vâng, thật là phi thường!"
"Kỳ lạ…là đức Thiên Hoàng lại... lại dự kiến rời Kyoto và tới Osaka."
"Đúng thế. Dù vậy, ngày hai mươi hai này, Thiên Hoàng và Nghị trượng Thiên tử sẽ tới đây."
Nghị trượng Thiên tử - không có những cái này thì sự lên ngôi sẽ không có giá trị - là ba báu vật được coi là của Trời cho, và được mọi người tin rằng chúng đã được thần Ninigi nô Mikoto đem xuống trần đích thân truyền lại cho người cháu gái của thần Jimmu Tenno, vị Thiên Hoàng người trần đầu tiên rồi Jimmu Tenno lại truyền cho người kế vị mình, cứ thế cho đến người trị vì hiện nay là Thiên Hoàng Gô Nigô. Đó là: Thanh Gươm, Viên Ngọc và Chiếc Gương. Gươm thần và Ngọc thần luôn luôn đi theo Thiên Hoàng với tất cả nghi tiết trọng thể mỗi khi Thiên Hoàng phải ngủ qua đêm ngoài cung điện. Chiếc Gương được cất trong thâm cung của Ngôi đền Shinto lớn ở Ixê. Gươm, Ngọc và Gương là thuộc sở hữu của Thiên Hoàng. Đó là những biểu tượng thiêng liêng của uy quyền chính thống, của dòng dõi thánh thần của nhà vua và khi nhà vua di chuyển, ngai vàng thiêng liêng cũng di chuyển theo. Như vậy mọi quyền lực đi theo cùng với Thiên Hoàng.
Yabu cất giọng khàn khàn:
"Thật không thể nào tin được mọi công việc chuẩn bị đón tiếp Thiên Hoàng lại có thể xong kịp được."
"Ồ, Đại nhân Tướng quân Ishido, nhân danh các Nhiếp chính, đã kiến nghị với Thiên Hoàng ngay khi Đại nhân được tin từ Đại nhân Zataki ở Yokose là Đại nhân Toranaga đã đồng ý - cũng thật đáng kinh ngạc - sẽ tới Osaka cúi chào chấp nhận sự việc không thể tránh khỏi. Chính vinh dự lớn của Đại nhân Toranaga đem lại cho các Nhiếp chính đã khiến các Nhiếp chính ngỏ ý thỉnh cầu Thiên Hoàng ban ơn tới diện điện trong buổi lễ này." Lại tiếng ho khan.
"Xin lỗi Đại nhân, có lẽ Đại nhân sẽ trao cho tôi lời nhận chính thức bằng văn bản ngay khi nào thuận tiện chứ?"
"Tôi có thể viết ngay được không?" Yabu hỏi, và cảm thấy người bủn rủn.
"Tôi tin chắc rằng các Nhiếp chính sẽ rất cảm kích."
Yabu yếu ớt sai người đi lấy giấy. Mấy chữ.
"Mười chín" cứ đập thình thình trong đầu óc lão. Mười chín ngày! Toranaga chỉ có thể trì hoãn được mười chín ngày rồi sẽ phải tới đây. Ta có đủ thời gian để đi Nagasaki rồi yên ổn trở về Osaka nhưng không có đủ thời gian để tung ra cuộc tiến công trên biển vào Black Ship, đoạt lấy nó, tức là không có đủ thời gian để gây sức ép với Harima, Kiyama hay Onoshi hay các tu sĩ Cơ đốc giáo, do đó không có đủ thời gian để tiến hành.
"Bầu trời đỏ thắm", do đó toàn bộ kế hoạch của Toranaga lại chỉ là một ảo vọng nữa mà thôi... Ôi, ôi, ôi!
Toranaga đã thất bại. Lẽ ra ta phải biết là hắn sẽ thất bại. Câu trả lời cho cái thế lưỡng nan của ta là rõ ràng: hoặc ta cứ mù quáng tin ở Toranaga và luồn ra khỏi cái lưới này rồi giúp tên Anjin-san như đã hoạch định, kiếm người cho nó để chiếm lấy Black Ship nhanh hơn nữa, hoặc là ta phải tới gặp Ishido nói hết mọi điều ta biết và tìm cách mặc cả để giữ lấy cái mạng ta và Izu.
Chọn đường nào?
Giấy, bút và mực đã được đem tới. Yabu gạt nỗi lo sợ sang một bên và tập trung vào viết thư phúc đáp thật hay, thật đẹp. Phúc đáp lời mời của đấng chí tôn với một đầu óc lộn xộn là không thể được. Viết xong thư lão đã đi đến một quyết định khẩn cấp: sẽ hoàn toàn hành động theo lời khuyên của Yuriko. Sức nặng đè trĩu lên cái wa của lão bỗng biến mất và lão cảm thấy nhẹ nhõm, trong sạch. Lão ký tên mình một cách hoa mỹ kiêu kỳ.
Làm thế nào để trở thành chư hầu tốt nhất của Toranaga? Rất đơn giản: trừ khử Ishido khỏi cõi đời này.
Làm thế nào để thực hiện được việc đó mà vẫn còn đủ thời gian để tẩu thoát?
Lão bỗng nghe thấy Ogaki nói:
"Đại nhân được mời ngày mai tới dự buổi tiếp khách trọng thể của Đại nhân Ishido để mừng sinh nhật phu nhân Ochiba!"
Vẫn còn mặc quần áo đi đường, Mariko ôm hôn Kiri trước rồi đến phu nhân Sazuko, ngắm nghía khen ngợi đứa bé rồi lại ôm lấy Kiri lần nữa. Các thị tỳ rối rít, ồn ào chạy xung quanh họ, đem trà, và sake lại, bưng các khay đi, vội vã chạy ra chạy vào đem đệm, đem cỏ thơm tới, đóng mở các shoji nhìn xuống vườn của nơi họ ở trong lâu đài Osaka, phe phẩy quạt, trò chuyện líu lo và cả khóc nữa.
Cuối cùng Kiri vỗ tay một tiếng cho các thị tỳ lui rồi nặng nề tìm chiếc đệm đặc biệt của mình, lòng tràn ngập vui sướng và kích động. Mặt bà đỏ bừng bừng. Mariko và phu nhân Sazuko vội vã quạt cho bà và chăm sóc bà và chỉ sau ba chén sake lớn, bà mới lấy lại được hơi thở.
"Ồ, dễ chịu rồi", bà nói.
"Vâng, cám ơn em. Vâng, cho tôi xin thêm ít sake nữa! Ôi, Mariko chan, có thật phu nhân đấy không?"
"Em đây, em đây mà. Thật mà, Kiri-san."
Sazuko trông trẻ hơn tuổi mười bảy của mình nhiều, nói.
"Ôi, chúng tôi nghe những tin đồn, Mariko chan." Kiri xen. ngang.
"Ôi, có biết bao nhiêu điều tôi muốn biết, tôi cảm thấy như muốn xỉu."
"Ôi, tội nghiệp Kiri-san, phu nhân uống thêm chút sake nữa." Sazuko ái ngại nói.
"Có lẽ phu nhân nên nới lỏng bớt obi ra và…"
"Thôi bây giờ tôi hoàn toàn dễ chịu rồi! Đừng lo cuống lên thế, em!" Kiri thở ra và khoanh tay trên cái bụng đồ sộ của mình.
"Ôi Mariko-san, thật sung sướng lại được thấy một gương mặt thân ái từ bên ngoài lâu đài Osaka vào đây."
"Đúng thế", Sazuko họa theo, nép sát vào người Mariko và nói liền một thôi một hồi.
"Mỗi khi chúng tôi ra khỏi cổng là bọn Áo Xám xúm xít vây quanh như thể chúng ta là những con ong chúa ấy. Chúng tôi không được rời khỏi lâu đài, trừ khi có phép của Hội đồng... các phu nhân khác cũng thế, kể cả phu nhân của Đại nhân Kiyama. Còn Hội đồng thì hầu như chẳng bao giờ họp cả và họ cứ ngắc nga ngắc ngư với nhau cho nên chẳng bao giờ được phép cả và ông thầy thuốc vẫn bảo là tôi chưa đi xe được nhưng tôi khỏe, đứa bé cũng khỏe và... nhưng trước hết phu nhân hãy kể cho chúng tôi..."
Kiri ngắt lời Sazuko:
"Trước hết hãy cho chúng tôi biết Chúa công thế nào."
Cô gái cười, sự liến láu không hề giảm,
"Thì tôi cũng đang định hỏi thế, Kiri-san!"
Mariko trả lời như Toranaga đã dặn:
"Đại nhân vẫn làm theo đường lối của mình... Đại nhân tin tưởng và hài lòng về quyết định của mình." Nàng đã tập dượt nhiều lần trong thời gian đi đường. Nhưng dù thế, vẻ u sầu nặng nề nàng gây ra hầu như khiến nàng muốn nói buột ra sự thật.
"Xin lỗi", nàng nói.
"Ôi!" Sazuko cố gắng không để lộ ra sự sợ hãi trong giọng nói.
Kiri nhấc mình ngồi lại cho thoải mái hơn.
"Karma là karma, neh?"
"Vậy… vậy là không thay đổi gì cả... không có hi vọng gì cả ư?" Sazuko hỏi.
Kiri vuốt ve bàn tay cô gái.
"Hãy tin rằng karma là karma, em ạ, và Đại nhân Toranaga là người sống trên đời này vĩ đại nhất, khôn ngoan nhất. Thế là đủ, còn lại chỉ là ảo tưởng thôi. Mariko chan, phu nhân có thứ gì cho tôi không?"
"Ồ, xin lỗi. Có đây ạ", Mariko lấy trong ống tay áo ra ba cuộn giấy.
"Hai cho phu nhân Kiri chan, một của Chúa thượng, một của Đại nhân Hiromatsu. Còn đây là của Chúa thượng gửi cho phu nhân Sazuko nhưng Đại nhân sai tôi nói lại với phu nhân rằng Đại nhân rất nhớ phu nhân và muốn được xem mặt cháu bé. Đại nhân bắt tôi nhớ để nói lại với phu nhân ba lần. Đại nhân rất nhớ phu nhân và rất muốn được xem mặt cháu bé. Đại nhân rất nhớ phu nhân và..."
Nước mắt chảy ròng ròng trên má cô gái. Cô ấp úng xin lỗi rồi chạy ra khỏi phòng, tay ôm chặt cuộn giấy.
"Tội nghiệp cô bé. Sống ở đây thật là cực cho cô ấy", Kiri không bẻ vỡ dấu ấn các cuộn giấy của mình.
"Phu nhân biết là đức Thiên Hoàng sẽ có mặt chứ?"
"Dạ, có biết." Mariko cũng lộ vẻ nghiêm trọng.
"Một liên lạc của Đại nhân Toranaga đã đuổi kịp tôi cách đây một tuần. Thư không nói chi tiết gì khác ngoài chi tiết đó và có ghi rõ ngày Đại nhân sẽ tới đây. Phu nhân có được tin gì của Đại nhân không?"
"Không được tin trực tiếp... không có gì riêng cả... Đến nay đã một tháng rồi. Đại nhân thế nào.. Thật sự ấy."
"Tin tưởng." Nàng nhấm nháp một ít sake."Ồ xin phép mời phu nhân uống thêm ít sake nữa."
"Cảm ơn phu nhân."
"Mười chín ngày không phải là nhiều, có phải không Kiri chan?"
"Đủ thời gian để về đi Yedo rồi trở lại đây nếu đi gấp, đủ thời gian để sống cả một cuộc đời nếu ta muốn, thừa thời gian để đánh một trận hoặc mất cả một vương quốc... đủ thời gian cho hàng triệu công việc, nhưng không đủ thời gian để ăn tất cả những món ngon hiếm hay uống hết tất cả sake..." Kiri khẽ mỉm cười,
"Chắc chắn là trong hai mươi ngày tới, tôi sẽ không có kiêng khem ăn uống giữ gìn gì nữa. Tôi..." Bà dừng lại."Ồ xin lỗi, tôi cứ bô bô mãi mà phu nhân thì chưa thay quần áo, chưa tắm rửa. Sau này ta còn khối thời gian để trò chuyện."
"Ồ xin phu nhân đừng phiền lòng tôi không mệt."
"Nhưng nhất định là phải mệt chứ. Phu nhân nghỉ lại ở nhà phu nhân chứ."
"Vâng. Đó là nơi giấy thông hành của Đại nhân Ishido cho phép tôi tới." Mariko cười gượng.
"Ông ta tiếp đón với những lời hoa mỹ."
Kiri cau mày.
"Tôi không tin ông ta sẽ được tiếp đón tử tế cả ở địa ngục."
"Ồ xin lỗi, bây giờ thế nào?"
"Chẳng có gì khác trước, tôi biết chính ông ta đã hạ lệnh giết và tra tấn Đại nhân Sugiyama tuy tôi không có bằng chứng gì cả. Tuần trước một nàng hầu của Đại nhân Ôđa đã tìm cách lẻn ra ngoài cùng với con cái cải trang làm người quét đường. Lính gác đã bắn chết họ.
"Vì nhầm lẫn."
"Khủng khiếp quá!"
"Tất nhiên là lại ra sức.
"Xin lỗi"! Ishido rêu rao rằng an toàn là quan trọng hơn hết. Ông ta đã bịa đặt ra là có một vụ mưu sát Thế tử để lấy đó làm cái cớ..."
"Tại sao các bà phu nhân không công khai rời khỏi đây?"
"Hội đồng Nhiếp chính đã ra lệnh cho các bà vợ và các gia đình đợi chồng mình quay trở lại đây để dự Lễ. Đại nhân Tướng quân cảm thấy mình.
"Chịu trách nhiệm nặng nề về sự an toàn của họ cho nên không dám để họ đi lung tung." Lâu đài đã bịt chặt, kín hơn cả một con sò."
"Kiri-san, bên ngoài cũng vậy. Trên con đường Tokaido có nhiều hàng rào chắn đường hơn trước và lực lượng an ninh Ishido rất mạnh trong vòng năm mươi ri. Khắp nơi khắp chốn đều có những đội tuần tiễu."
"Ai cũng sợ ông ta, trừ chúng tôi và một số Samurai của chúng tôi, vả lại chúng tôi cũng chẳng còn khả năng gây rắc rối gì được cho ông ta nữa, không hơn gì cái mụn ghẻ trên mông đít con rồng."
"Kể cả các thầy thuốc?"
"Kể cả họ. Phải, họ vẫn khuyên chúng tôi không nên đi xa, ngay cả khi được phép, mà phép thì không đời nào có được."
"Phu nhân Sazuko có khỏe không... đứa bé có khỏe không, Kiri-san?"
"Khỏe cả, rồi phu nhân sẽ tự mình thấy thôi. Và tôi cũng khỏe." Kiri thở dài, lúc này sự căng thẳng lộ rõ, và Mariko nhận ra trong tóc bà có nhiều tóc xám hơn trước.
"Chẳng có gì thay đổi kể từ khi tôi viết thư cho Đại nhân Toranaga tại Anjiro. Chúng tôi là những con tin và vẫn sẽ là những con tin cùng với những người khác cho đến cái Ngày ấy. Khi đó sẽ có giải quyết."
"Bây giờ đức Thiên Hoàng sẽ tới... như thế là mọi chuyện đã dứt khoát, neh?"
"Phải. Có vẻ như thế. Thôi. Mariko-san, đi nghỉ đi, nhưng tối nay ăn cơm với chúng tôi nhé. Rồi chúng ta sẽ nói chuyện, neh? Ồ, nhân tiện, có một tin cho phu nhân. Cái anh chàng Hatamoto man di trứ danh của phu nhân - cầu Trời Phật ban phước cho anh ta đã cứu Chúa công chúng ta, chúng tôi đã được biết tin về việc đó - anh ta đã cập bến an toàn sáng nay, với Kasigi Yabu-san."
"Ồ! Tôi đã rất lo cho họ. Họ lên đường trước tôi một ngày, theo đường biển. Chúng tôi cũng đã gặp bão ở Nagoya nhưng không đến nỗi tệ hại lắm. Tôi sợ ngoài biển... Ôi, thật là mừng."
"Ở đây cũng không tệ hại lắm trừ hỏa hoạn. Mấy nghìn ngôi nhà bị cháy nhưng chỉ có hai nghìn người chết thôi. Hôm nay chúng tôi nghe nói sức bão mạnh nhất là ở Kyushu, trên bờ biển phía Đông, và một phần Sikoku. Hàng vạn người chết, chưa ai biết được toàn bộ sự thiệt hại ra sao."
"Thế còn mùa màng thế nào?" Mariko hỏi ngay.
"Phần lớn đổ rạp cả... hết ruộng này đến ruộng khác. Nông dân hi vọng lúa sẽ hồi lại, nhưng biết thế nào được? Nếu ở Kuanto không có thiệt hại gì trong mùa màng này thì lúa ở đấy có thể sẽ phải tiếp tế cho cả nước năm nay và sang năm."
"Nếu Đại nhân Toranaga kiểm soát được vụ thu hoạch đó thì tốt hơn Ishido nhiều, neh?"
"Phải. Nhưng, xin lỗi, mười chín ngày thì không đủ thời gian thu hoạch vụ này, dù có cầu nguyện đến bao nhiêu đi nữa."
Mariko uống nết chỗ sake.
"Vâng."
Kiri nói:
"Nếu thuyền của họ rời bến trước phu nhân, thì hẳn phu nhân đã phải đi rất nhanh."
"Tôi nghĩ là không nên nhẩn nha quá dọc đường thưa Kiri chan. Đi đường xa đối với tôi chẳng thú vị gì."
"Thế còn Buntaro-san? Ông ấy bình an chứ?"
"Vâng. Phu quân tôi đảm trách Mishima và toàn bộ bờ cõi lúc này. Trước khi tới đây, tôi có gặp phu quân tôi trong chốc lát. Phu nhân có biết Kisigi Yabu-san nghỉ ở đâu không? Tôi có một bức thư trao cho ông ta."
"Ở một nhà khách. Tôi sẽ hỏi và cho người báo cho phu nhân biết ngay." Kiri nhận thêm một chén rượu nữa.
"Cảm ơn Mariko-san. Tôi nghe nói Anjin-san vẫn ở trên galleon."
"Thưa Kiri-san, ông ta là một con người rất đáng chú ý. Ông ta đã trở nên rất hữu ích đối với Chúa công chúng ta."
"Tôi có nghe nói. Tôi muốn biết mọi chuyện về ông ta và về trận động đất, về mọi tin tức của phu nhân. À phải, tối mai có một cuộc tiếp khách trọng thể của Đại nhân Ishido mừng sinh nhật của phu nhân Ochiba. Đương nhiên là phu nhân được mời rồi. Phu nhân Ochiba muốn xem ông ta là con người như thế nào. Phu nhân còn nhớ là Thế tử đã gặp Anjin-san một lần. Có phải khi ấy cũng là lần đầu tiên phu nhân gặp ông ta không?"
"Vâng. Tội nghiệp ông ta, thế là ông ta đã được đem ra phô bày, như một con cá voi đánh bắt được phải không?"
"Phải", Kiri bình thản nói thêm.
"Cùng với tất cả chúng tôi. Chúng tôi cũng đều là những kẻ bị bắt. Mariko chan ạ, dù muốn hay không muốn."
Uraga len lén vội vã đi theo con đường xuôi xuống bờ biển. Đêm tối đen, bầu trời sáng sao, không khí dễ chịu. Hắn mặc một chiếc áo thụng lòe xòe màu da cam của sư Phật giáo, đội chiếc mũ cố hữu của hắn và đi dép rơm rẻ tiền. Sau lưng hắn là các nhà kho và trụ sở cao, to lù lù, na ná kiểu Châu Âu của Hội truyền giáo dòng Temple. Hắn rẽ vào một góc đường vào rảo bước nhanh hơn. Người đi lại thưa thớt. Một đại đội Áo Xám cầm đuốc đi tuần trên bờ biển. Uraga đi chậm lại khi hắn lễ phép qua mặt họ nhưng vẫn giữ thái độ kiêu kỳ của một nhà sư. Đám Samurai hầu như không để ý gì đến hắn.
Hắn xăm xăm đi dọc bờ biển không hề nhầm lẫn, qua những chiếc thuyền đánh cá đã kéo lên bờ, gió nhẹ thổi nặng mùi của biển và của bờ biển. Lúc này nước triều đang rút. Rải rác trên vịnh và trên các ô cát là những người đánh cá đêm, trông như con đom đóm, đánh bắt cá bằng những ngọn mác, một tay cầm đuốc. Đằng xa, khoảng hai trăm bước về phía trước mặt là các bến, các kè, bám đầy hà. Neo ở một bến là một chiếc thuyền con của tu sĩ dòng Temple; trên thuyền phấp phới cờ của Portugal và của Hội thánh dòng Temple, nhiều đuốc và có những tên Áo Xám đứng ở gần cầu tàu. Uraga đổi hướng để lánh chiếc thuyền, quay về phía thành phố, đi qua mấy khối nhà rồi băng qua Phố Mười chín, ngoặt vào những đường đi chằng chịt rồi lại ra tới đường lớn dọc theo các bến tàu.
"Ai? Đứng lại!"
Tiếng hô phát ra từ trong bóng tối. Uraga hốt hoảng dừng lại. Những tên Áo Xám tiến ra chỗ sáng, vây quanh hắn.
"Sư ông đi đâu?"
"Tôi đến phía Đông thành phố", Uraga ngập ngừng nói, mồm khô khốc.
"Đến chùa Nicheren của chúng tôi."
"Sư ông là người của chùa Nicheren, neh?"
Một Samurai khác nói cộc cằn.
"Tôi không theo giáo phái này. Tôi là người Phật giáo Thiền như Đại nhân Tướng quân của chúng ta."
"Thiền... à đúng, Thiền là tốt nhất", một Samurai khác nói.
"Ước gì tôi hiểu được Thiền. Quá khó đối với cái đầu này."
"Này, sư mô gì mà vã mồ hôi ra thế kia, có phải không? Sao nhà sư lại đổ mồ hôi thế?"
"Thế ông cho là sư không đổ mồ hôi?"
Và tên ấy bật cười nhưng một tên gí đuốc lại gần hơn.
"Sao lại phải đổ mồ hôi?" Tên cộc cằn nói.
"Sư mô chỉ có ngủ suốt ngày và làm tình nửa đêm với ni cô, vãi, trẻ con, chó, làm tình với nhau, với bất cứ cái gì chúng vớ được…còn thì lúc nào cũng tọng, mà làm thì chẳng làm gì cái gì hết. Sư mô toàn là bọn ăn bám, như bọ chét ấy."
"Ê, đừng đụng đến ông ta, ông ta chỉ là..."
"Này nhà sư, bỏ mũ ra xem nào."
Uraga cứng người:
"Tại sao? Và tại sao lại sỉ vả, chế nhạo một người tu hành, thờ Phật? Đức Phật không…"
Tên Samurai hùng hổ bước tới.
"Tao đã bảo là bỏ mũ ra!"
Uraga làm theo. Đầu hắn mới cạo trọc như sư và hắn thầm tạ ơn không biết kami hay ma quỷ hay ơn huệ nào của Phật đã xui giục hắn làm thêm cái việc đề phòng này cho chắc chắn, ngộ nhỡ hắn bị bắt vì tội vi phạm lệnh giới nghiêm. Tất cả các Samurai của Anjin-san đều đã được lệnh các nhà chức trách của cảng phải ở lại trên thuyền trong khi chờ đợi chỉ thị của cấp trên,
"Không có lý do gì để đối xử khiếm nhã như vậy", quyền uy bất giác của một tu sĩ dòng Temple làm hắn nổi giận.
"Thờ Phật là một cuộc đời đáng trọng và đi tu làm sư là đáng trọng và phải là cái thân phận cuối cùng của tất cả các Samurai khi về già…Hay là các ông không biết gì cả về Bushiđô. Lễ phép của các ông đâu cả rồi?"
"Sao? Sư ông là Samurai?"
"Tất nhiên tôi là Samurai. Nếu không làm sao tôi dám nói chuyện với các Samurai về sự khiếm nhã?" Uraga đội mũ lên đầu.
"Các ông nên đi tuần tra thì tốt hơn là chặn các nhà sư vô tội để chửi bới!" Hắn vênh mặt, kiêu ngạo bước đi, nhưng hai chân bủn rủn.
Bọn Samurai nhìn theo hắn một lát rồi một tên nhổ toẹt xuống đất.
"Sư mô!"
"Ông ta nói đúng đấy", tên Samurai chỉ huy cáu kỉnh nói.
"Lễ phép của các ông để đâu cả rồi?"
"Xin lỗi, xin ngài lượng thứ cho."
Uraga đi dọc con đường lớn, rất tự hào về bản thân mình. Đến gần galleon, hắn lại chú ý cảnh giác và dừng lại một lát ở chỗ khuất bên cạnh tòa nhà. Rồi, tự định thần lại, hắn bước ra khoảng trống rực sáng ánh đuốc.
"Chào các ông", hắn lễ phép nói với bọn Áo Xám đang đứng uể oải bên cạnh cầu tàu rồi nói thêm lời chúc phúc của đạo Phật.
"Namu Amida Butsu." Nam Mô A di đà Phật.
"Xin cảm ơn sư ông. Namu Amida Butsu." Bọn Áo Xám để cho hắn đi qua không ngăn trở. Chúng được lệnh là tên man di và tất cả các Samurai của gã đều cấm không được lên bờ, trừ Yabu và đội vệ sĩ danh dự của lão. Không ai nói gì hết về ông sư đi theo trên thuyền.
Lúc này rất mệt mỏi, Uraga đi lên boong chính.
"Uraga-san", từ sàn lái Blackthorne khẽ gọi.
"Lại đây!."
Uraga nheo mắt để thích nghi với bóng tối. Hắn nhìn thấy Blackthorne và ngửi thấy hơi người oai oai, tanh tanh và hắn biết rằng cái bóng thứ hai ở đó phải là gã man di kia, có cái tên không thể đọc nổi và cũng biết nói tiếng Portugal. Hắn đã hầu như quên mất cái mùi đó là thế nào vì đã xa lâu ngày tuy nó đã từng là một phần cuộc sống của hắn trước đây. Anjin-san là gã man di duy nhất hắn gặp mà không nồng nặc mùi hôi, đó cũng là lý do tại sao hắn có thể phục vụ ông ta.
"A, Anjin-san", hắn thì thào rồi tìm đường đi về phía Blackthorne, chào nhanh mười tên vệ sĩ rải rác quanh sàn lái.
Hắn đứng đợi ở chân cầu thang chờ Blackthorne ra hiệu cho hắn lên sàn lái.
"Công việc rất…"
"Khoan đã", Blackthorne ngăn hắn lại thật khẽ rồi trỏ.
"Hãy nhìn bên kia bờ. Ở đằng kia, gần nhà kho ấy. Trông thấy hắn không? Không, xa hơn một chút về phía Bắc…đấy, bây giờ thì ông trông thấy rồi chứ?" Một bóng người khẽ chuyển động rồi lại biến vào bóng tối.
"Ai thế?"
"Tôi đã chăm chú theo dõi ông từ lúc ông đi vào con đường lớn. Hắn đã bám sát ông. Ông không nhìn thấy hắn à?"
"Không, thưa Đại nhân" Uraga đáp, linh tính lại báo cho hắn một điềm chẳng lành.
"Tôi không trông thấy ai cả. Không cảm thấy có ai theo mình."
"Hắn không đeo kiếm, cho nên hắn không phải là Samurai. Một tu sĩ dòng Temple chăng?"
"Tôi không rõ. Có lẽ không phải đâu... tôi đã hết sức cẩn thận. Xin lỗi Đại nhân vì tôi đã không nhìn thấy hắn."
"Không sao." Blackthorne liếc nhìn Vinck.
"Johann, anh xuống dưới đi. Tôi sẽ gác nết phiên gác này rồi sẽ đánh thức lúc rạng sáng. Cảm ơn anh đã đợi."
Vinck giơ tay chạm vào mái tóc xòa xuống trán rồi đi xuống. Mùi hôi ẩm cũng biến theo cùng với gã.
"Tôi đã bắt đầu lo cho ông rồi đấy", Blackthorne nói.
"Có chuyện gì xảy ra thế?"
"Thưa Anjin-san, người đưa tin của Yabu Sama chậm quá. Đây là báo cáo của tôi. Tôi đã đi với Yabu Sama và đứng đợi ở bên ngoài lâu đài từ giờ ngọ đến tận chập tối thì…"
"Suốt thời gian ấy ông làm gì? Ông hãy kể cho chính xác."
"Chính xác ạ, thưa Đại nhân! Tôi đã chọn một chỗ kín đáo gần chợ, trông thấy được Cầu thứ nhất rồi tập trung suy tưởng... một tập quán của đòng Tên, thưa Anjin-san, nhưng không phải là nghĩ về Chúa Trời đâu; mà chỉ mỉm cười. Nhiều người qua đường đã ném tiền vào cái bát khất thực của tôi. Tôi để cho thân xác nghỉ ngơi và đầu óc nghĩ vớ vẩn, tuy tôi vẫn chăm chú, lúc nào cũng nhìn Cầu thứ nhất. Người đưa tin cửa Yabu Sama mãi đến chập tối mới ra và giả vờ cầu kinh với tôi cho đến khi không còn ai nữa ngoài hai chúng tôi. Người đưa tin thì thầm thế này:
"Yabu Sama nói rằng Đại nhân sẽ ở lại lâu đài đêm nay và sẽ trở về sáng mai. Tối mai ở lâu đài có một buổi lễ chính thức. Anjin-san cũng sẽ được Đại nhân Ishido mời dự. Cuối cùng Đại nhân cần phải suy xét.
"Bảy mươi." Uraga ngó nhìn anh.
"Gã Samurai đó nhắc lại hai lần, cho nên tôi đồ rằng đó là một mật hiệu riêng, thưa Đại nhân."
Blackthorne gật đầu nhưng không nói gì về mật hiệu đó, một trong những mật hiệu đã thỏa thuận trước giữa anh và Yabu.
"Bảy mươi" có nghĩa là tất cả các Samurai, thủy thủ và tay chèo của anh bị cấm không được rời khỏi galleon, thuyền phải sẵn sàng. Và do mọi người đều biết rõ họ đang ở trong vùng biển địch với mọi sự rối ren, nên Blackthorne hiểu rằng không phải cố gắng gì cũng có thể đưa thuyền ra khơi ngay được.
"Nói tiếp đi, Uraga-san!"
"Có thế thôi ạ, trừ một điều tôi cần báo cáo là Toda Mariko-san đã tới đây hôm nay..."
"A! Thế bà ấy... Đi đường bộ từ Yedo tới đây như thế chẳng phải là nhanh lắm sao?"
"Vâng, nhanh đấy ạ, thưa Đại nhân. Thật ra, trong khi chờ đợi, tôi đã trông thấy đoàn của phu nhân đi qua cầu. Lúc đó là buổi chiều, vào khoảng giữa giờ mùi. Ngựa đẫm mồ hôi và đầy bùn, còn các phu khiêng thì rất mệt. Yoshinaka-san dẫn đầu bọn họ."
"Có ai trông thấy ông không?"
"Không ạ. Tôi nghĩ là không ai trông thấy tôi."
"Có bao nhiêu người?"
"Khoảng hai trăm Samurai, cùng với phu và ngựa thồ hành lý. Bọn Áo Xám đi bộ, trông họ đông gấp đôi con số đó. Một con ngựa thồ có chở những lồng chim đưa thư."
"Tốt. Rồi sao?"
"Chờ dịp thuận tiện là tôi rời khỏi đó ngay…Gần trụ sở Hội truyền giáo có một cửa hàng mỳ, nhiều thương gia, buôn bán gạo, lụa và người của Hội truyền giáo thường vẫn ăn ở đó. Tôi... vào đấy, ngồi ăn và chú ý nghe ngóng. Đức cha Thanh tra lại về ở đây. Ở khu vực Osaka có thêm nhiều người cải đạo. Một buổi lễ Misa lớn đã được phép tổ chức hai mươi ngày nữa, để mừng Đại nhân Kiyama và Đại nhân Onoshi."
"Quan trọng đến thế kia à?"
"Vâng, và thật đáng ngạc nhiên là một buổi lễ như vậy lại được phép tổ chức công khai. Để mừng ngày lễ Thánh Becna. Hai mươi ngày nữa là một ngày sau buổi lễ Thần phục được đức chí tôn..."
Yabu đã kể cho Blackthorne nghe, thông qua Uraga, về Thiên Hoàng. Tin tức đã lan truyền khắp thuyền làm tăng thêm linh cảm tai họa của mọi người.
"Còn gì nữa không?"
"Ngoài chợ có nhiều tin đồn. Phần lớn là những tin đồn dữ cả. Yedoko Sama, vợ góa của Taiko, ốm nặng. Thật là không hay, thưa Anjin-san, bởi ý kiến của bà vẫn thường được mọi người nghe và bao giờ cũng tỏ ra phải chăng. Có người nói rằng Đại nhân Toranaga đã đến gần Nagoya, người khác thì lại bảo chưa đến Odaoara, cho nên chẳng ai biết thế nào mà tin. Tất cả đều nhất trí cho rằng vụ mùa năm nay sẽ ghê gớm, ở Osaka đây, như thế có nghĩa là vùng Kuanto lại càng trở nên nghiêm trọng. Đa số cho rằng nội chiến sẽ nổ ra ngay khi nào Đại nhân Toranaga chết, khi đó các Daimyo lớn đánh lẫn nhau. Giá vàng cao và lãi suất lên đến bảy mươi phần trăm..."
"Làm gì cao đến thế, chắc ông nhầm đấy", Blackthorne đứng dậy, vươn vai cho đỡ mỏi lưng rồi uể oải tựa vào mạn thuyền. Uraga và các Samurai cũng lễ phép đứng dậy cả. Chủ của họ đứng mà họ cứ ngồi là vô lễ.
"Xin Anjin-san thứ lỗi cho", Uraga nói.
"Không bao giờ dưới năm mươi phần trăm, thường là từ sáu mươi lăm đến bảy mươi, thậm chí tám mươi. Cách đây gần hai mươi năm, Đức cha Thanh tra đã kiến nghị với Đức Giáo... với Giáo hoàng cho phép chúng tôi…cho phép Hội truyền giáo cho vay lãi suất mười phần trăm. Ông ta làm thế là đúng bởi vì gợi ý của ông ta nếu được thông qua…sẽ đem lại danh giá cho Đạo và nhiều người khác sẽ cải đạo bởi vì đương nhiên là chỉ có tín đồ Cơ đốc giáo mới được vay thôi, tuy những khoản vay đó luôn luôn chỉ là những món tiền nhỏ. Ở nước Đại nhân, không lấy lãi cao như thế ư?"
"Ít khi lắm. Như thế ra cho vay nặng lãi quá. Ông có hiểu.
"Nặng lãi" không?"
"Hiểu ạ. Nhưng đối với chúng tôi dưới một trăm phần trăm không phải là lãi nặng. Tôi định nói để Đại nhân biết là bây giờ gạo cũng rất đắt và đó là một điềm xấu... giá gạo tăng gấp đôi so với khi tôi ở đây cách đây mấy tuần. Đất thì rẻ. Lúc này là dịp tốt nhất để mua đất ở đây. Hay mua nhà. Trong trận tai phun và hỏa hoạn vừa rồi có lẽ có tới một vạn gia đình bị tàn phá, hai ba nghìn người chết. Tất cả có thế thôi ạ."
"Tốt lắm. Ông làm được việc, rất tốt. Đúng ra là ông đã chọn nhầm nghề."
"Sao ạ, thưa Đại nhân?"
"Không, không có gì đâu." Blackthorne nói, chưa biết mình có thể đùa cợt Uraga được tới đâu.
"Ông đã làm được việc rất tốt."
"Cảm ơn Đại nhân."
Blackthorne suy nghĩ một lát rồi hỏi Uraga về buổi lễ ngày mai và Uraga khuyên bảo anh hết lòng. Cuối cùng Uraga kể cho anh nghe hắn đã thoát được tay đội tuần tra như thế nào.
"Nếu cứ để tóc thì có bị lộ không?" Blackthorne hỏi.
"Ồ, lộ chứ ạ. Đủ để chúng đưa tôi về trụ sở của chúng." Uraga lau mồ hôi trán.
"Xin lỗi Đại nhân; nóng quá, neh?"
"Phải nóng quá", Blackthorne lễ phép đồng ý, rồi thầm sàng lọc các tin tức. Anh nhìn ra biển. bất giác xem trời xem nước và kiểm tra gió. Mọi sự đều tốt đẹp, ngăn nắp, các thuyền đánh cá thong dong trôi theo triều nước, khi gần khi xa, một người cầm mác ngồi ở mũi thuyền dưới một ngọn đèn lồng, thỉnh thoảng lại phóng mác xuống nước và hầu như lần nào cũng kéo lên được một con cá vền to hoặc một con cá đối hoặc một con lươn đỏ quấn mình quằn quại quanh lưỡi mác.
"Một việc cuối cùng, thưa Đại nhân. Tôi có đến trụ sở Hội truyền giáo... đi loanh quanh gần đó. Lính gác rất cẩn mật và tôi không thể nào lọt vào được trong đó... ấy là tôi nghĩ thế, trừ phi qua được một tên lính gác. Tôi quan sát một lát rồi trước khi rời khỏi nơi đó thì tôi trông thấy Chimoko, nữ tỳ của phu nhân Toda đi vào."
"Có đúng không?"
"Đúng ạ. Có một nữ tỳ nữa đi cùng Chimoko. Tôi nghĩ..."
"Là phu nhân Mariko? Cải trang?"
"Không ạ. Tôi chắc là không phải... nữ tỳ này rất cao lớn."
Blackthorne lại nhìn ra biển và lẩm bẩm, nửa như tự nói với mình.
"Như thế có nghĩa là thế nào?"
"Phu nhân Mariko là người Cơ đốc.... người Thiên Chúa giáo, neh? Phu nhân biết rõ Đức cha Thanh tra. Chính Đức cha đã cải đạo cho phu nhân. Phu nhân Mariko là một phu nhân rất quan trọng, nổi tiếng nhất trong toàn quốc, sau ba vị quý tộc cao nhất: phu nhân Ochiba, phu nhân Ghenjiko và Yodoko Sama, vợ của Taiko."
"Mariko-san muốn xưng tội ư? Hay làm lễ Misa? Hay hội nghị? Bà ấy sai Chimoko đi thu xếp chăng?"
"Không phải đâu ạ, thưa Anjin-san. Tất cả các phu nhân của các Daimyo, cả bè bạn của Đại nhân Tướng quân lẫn những người có thể chống lại, đều bị giữ lại ở trong lâu đài, neh? Đã vào tới bên trong là ở luôn trong đó, như cá trong chậu vàng vậy, đợi lúc bị xiên."
"Thôi đi! Đừng có nói chuyện gở."
"Xin Đại nhân thứ lỗi. Dù vậy, thưa Anjin-san, tôi nghĩ rằng lúc này phu nhân Toda sẽ không ra nữa. Cho đến ngày thứ mười chín."
"Tôi đã bảo thôi đi mà! Tôi hiểu chuyện con tin và ngày cuối cùng rồi."
Trên boong thuyền yên tĩnh, giọng nói của họ đều khẽ. Đám lính gác đang nghỉ ngơi thoải mái, đợi hết phiên canh. Sóng vỗ bập bềnh mạn thuyền, thừng chão kẽo kẹt nhè nhẹ.
Được một lát, Uraga nói:
"Có lẽ Chimiko mang một bức thứ mời… một thư thỉnh cầu Đức cha Thanh tra tới gặp phu nhân. Chắc chắn là sau khi đã đi qua Cầu thứ nhất, phu nhân đã bị canh gác rồi. Chắc chắn là Toda Mariko nô Buntaro nô Jinsai đã bị canh gác ngay từ giây phút đầu tiên sau khi vượt qua bờ cõi của Đại nhân Toranaga. Neh?"
"Chúng ta có thể làm thế nào để biết được Đức cha Thanh tra có vào lâu đài không?"
"Được ạ. Dễ thôi."
"Làm thế nào để biết được họ nói gì... hoặc làm gì?"
"Cái đó thì khó lắm. Rất tiếc, nhưng họ sẽ nói bằng tiếng Portugal hoặc Latin, neh? Mà ngoài Đại nhân và tôi ra, còn ai nói được hai thứ tiếng đó? Tôi thì sẽ bị cả hai người nhận ra ngay." Uraga chỉ về phía lâu đài và về phía thành phố.
"Ở đó có nhiều tín đồ Cơ đốc giáo. Bất cứ người nào khử được Đại nhân hoặc tôi cũng sẽ giành được ơn huệ lớn, neh?"
Blackthorne không trả lời. Không cần thiết phải trả lời. Anh nhìn lên vọng lâu in hình trên nền trời sao và anh nhớ lại Uraga đã kể cho anh nghe về kho báu huyền thoại lớn vô cùng, chứa trong đó của cải do Taiko đã cướp được của vương quốc thu về.
Nhưng lúc này anh suy nghĩ về Toranaga: ông ta đang làm gì? nghĩ gì và dự tính gì? và Mariko đích xác đang ở đâu? tiếp tục đi Nagasaki có ích lợi gì.
"Vậy ông nói ngày thứ mười chín là ngày cuối cùng, ngày chết hả, Yabu-san?" Anh nhắc lại, hầu như muốn buồn nôn và biết rằng cái bẫy đã sập xuống Toranaga. Và do đó sập xuống cả anh và chiếc Erasmus nữa.
"Shigata ga nai! Chúng ta sẽ đi nhanh tới Nagasaki rồi quay lại. Nhanh, hiểu không? Chỉ bốn ngày để lấy người. Rồi trở lại."
"Nhưng tại sao? Khi Toranaga đến đây thì tất cả sẽ chết, neh? Anh đã nói vậy. Nhưng Yabu đã lên bờ, bảo anh rằng ngày kia họ sẽ rời khỏi đây. Trong lòng xốn xang, anh đã nhìn theo lão, ước gì lão đã đưa Erasmus tới chứ không phải chiếc galleon. Giá mà anh có Erasmus thì anh biết mình sẽ có cách vượt qua Osaka đi thẳng đến Nagasaki hoặc có nhiều khả năng hơn là anh sẽ vọt đi biến khỏi chân trời, tìm một cảng kín đáo nào đó, bỏ thì giờ ra để huấn luyện các chư hầu của anh biết cách điều khiển chiếc thuyền.
Mày là thằng ngu, anh tự mắng mình. Có ít thủy thủ như thế này cũng không thể cập bến được nổi ở đây, chứ đừng nói gì đến chuyện tìm được cảng kín đáo đó mà đợi cho cơn giông quỷ quái kia qua. Mày đã chết rồi.
"Xin Đại nhân đừng lo phiền. Karma." Uraga nói.
"Hừ, karma.
"Bỗng Blackthorne nghe thấy có chuyện nguy cấp ở phía biển và người anh đã chuyển động ngay trước cả khi đầu anh ra lệnh và anh đang xoay người thì một mũi tên rít qua, cắm chệch anh trong đường tơ kẽ tóc rồi cấm phập vào vách ngăn, rung bần bật. Anh lao tới Uraga kéo hắn nằm xuống thì một mũi tên nữa cùng loạt tên đó đã rít lên cắm vào cổ họng Uraga xuyên qua cổ hắn, sau đó cả hai nằm co lại trên sàn tàu, an toàn. Uraga kêu ằng ặc, bọn Samurai la hét và nhòm ngó ra biển qua mạn thuyền. Đám Áo Xám của đội gác trên bờ ùa lên thuyền. Từ biển, từ đêm tối, một loạt tên nữa bay tới và mọi người vội tản ra tìm chỗ nấp. Blackthorne bò tới mạn thuyền và ghé mắt nhìn qua một lỗ thông nước và trông thấy một chiếc thuyền câu gần đó giập tắt đuốc rồi biến vào trong đêm tối. Tất cả các thuyền đều làm theo và chỉ một loáng sau, anh thấy những tay chèo vội vã cuống cuồng khuấy nước, bọt tung ra xa, ánh sáng lấp lánh trên những thanh kiếm và cây cung.
Tiếng kêu và Uraga lịm dần thành một cơn hấp hối khò khè, xé gan xé ruột trong lúc bọn Áo Xám ùa lên sàn lái, cung tên sẵn sàng. Cả chiếc thuyền lúc này ồn ào xáo động. Vinck lên tới boong rất nhanh, súng ngắn lăm lăm trong tay, vừa chạy vừa chúi đầu xuống.
"Lạy Chúa. Có chuyện gì thế... ông có làm sao không, ông hoa tiêu?"
"Không sao cả. Hãy cẩn thận... chúng ở trên các thuyền đánh cá ấy!" Blackthorne trườn trở lại chỗ Uraga. Hai bàn tay Uraga đang bấu chặt lấy đốc tên, mồm mũi và hai tai hắn đều ứa máu.
"Trời ơi!" Vinck há hốc miệng.
Blackthorne một tay nắm lấy ngạch mũi tên, tay kia đè lên chỗ thịt nóng ấm đang đập phập phồng rồi lấy hết sức rút mạnh. Chiếc tên được rút ra gọn gàng nhưng máu theo mũi tên vọt ra từng đợt, từng đợt. Uraga bắt đầu ngạt thở.
Lúc này bọn Áo Xám và các Samurai của Blackthorne vây quanh họ. Một số đã đem khiên tới và họ che cho Blackthorne, không để ý gì đến sự an toàn của chính bản thân họ. Một số khác thì vẫn còn run vì sợ, mặc dầu không còn nguy hiểm gì nữa. Một số khác tức giận với đêm tối, bắn vào bóng đêm, ra lệnh cho các thuyền câu đã mất hút phải quay lại.
Blackthorne đỡ Uraga lên tay, anh cảm thấy tuyệt vọng, biết rằng anh có thể làm được một cái gì mà không biết là cái gì, biết rằng không thể làm gì được. Cái mùi chết ngòn ngọt ớn người đến phát điên được xộc vào mũi anh, đầu óc anh như muốn thét lên như mọi lần,
"Lạy Chúa tôi, xin cảm tạ Chúa, đó không phải là máu của con, máu của con, cảm tạ Chúa."
Anh nhìn mắt Uraga van lơn, mồm hắn mấp máy không thành tiếng và nghẹn thở, ngực nhô lên, hạ xuống, rồi anh thấy chính các ngón tay của anh tự động làm dấu thánh giá trước mắt hắn. Uraga rùng mình, run rẩy, miệng hắn gào lên không thành tiếng, khiến anh nhớ đến một con cá bị xiên.
Uraga hấp hối mãi một thời gian khủng khiếp rồi mới chết.
Bạn cần đăng nhập để bình luận