Shogun Tướng Quân
Chương 10
Quyển Hai,
Cuộc hành trình của họ từ vịnh đến Osaka không có sự cố gì. Hải trình của Rodrigues rõ ràng và rất chính xác. Trong đêm đầu tiên, Rodrigues tỉnh lại. Lúc đầu, anh ta nghĩ đã chết, nhưng cơn đau chẳng bao lâu đã làm anh ta phải nghĩ khác đi.
"Họ đã chữa chân và băng bó cho cậu", Blackthorne nói.
"Cả vai cậu cũng được bó lại. Nó bị trật khớp. Họ không chích máu cho cậu dù mình cố gắng thuyết phục họ đến mấy."
"Khi tớ tới Osaka, những người Jesuit sẽ làm cái đó." Cặp mắt bị giày vò của Rodrigues hõm sâu.
"Làm sao mình tới đây, Ingeles? Mình nhớ là bị hất ra khỏi tàu, thế thôi, không còn nhớ gì khác."
Blackthorne kể lại cho anh ta nghe.
"Vậy là bây giờ tớ nợ cậu ơn cứu tử. Chúa nguyền rủa cậu!"
"Từ trên sàn tàu trông hình như mình có thể tới được vịnh. Từ phía mũi, góc nhìn có thể sai lạc vài độ. Sóng thật là rủi ro."
"Điều ấy không làm tớ lo ngại, Ingeles ạ. Cậu có sàn tàu, cậu có bánh lái. Cả hai chúng ta đều biết điều ấy. Không, tớ nguyền rủa cậu bởi vì bây giờ tớ nợ cậu một cuộc đời Lạy Đức Mẹ! Cái chân tớ!." Nước mắt anh ta trào lên vì đau. Blackthorne trao cho anh ta một bình rượu và trông nom anh ta. Ban đêm, cơn bão ngớt. Ông bác sĩ người Nhật tới mấy lần và buộc Rodrigues uống thuốc nóng, đắp khăn mặt nóng lên trán anh ta và mở lỗ cửa sổ. Mỗi khi bác sĩ đi khỏi, Blackthorne lại đóng cửa sổ bởi vì mọi người đều biết là bệnh đó sợ gió và cabin càng kín thì càng an toàn, khỏe mạnh, khi một người ốm như Rodrigues. Cuối cùng, bác sĩ quát anh và cắt một Samurai gác ở lỗ cửa sổ, bắt phải để mở.
Lúc rạng sáng, Blackthorne lên boong. Cả Hiromatsu và Yabu đều có mặt ở đó. Anh chào như một kỹ nữ.
"Konnichie wa Osaka?"
Họ chào đáp lại:
"Osaka, hai, Anjin-san." Hiromatsu nói:
"Hai! Isogi, Hiromatsu-san! Nhổ neo!"
"Hai! Anjin-san!"
Anh bất giác mỉm cười với Yabu. Yabu mỉm cười đáp lại rồi khập khiễng đi và suy nghĩ. Thật là một con người gớm ghê, dù cho hắn có là một con quỷ, một tên sát nhân. Cả ngươi chẳng phải cũng là một tên sát nhân ư? Đúng, nhưng không phải là kiểu đó, lão tự nhủ.
Blackthorne dẫn tàu về Osaka một cách dễ dàng. Cuộc hành trình mất ngày hôm ấy, đêm hôm ấy và ngay sau lúc rạng đông hôm sau, họ đã ở gần những con đường Osaka. Một hoa tiêu Nhật Bản lên tàu đưa con tàu về bến. Được hết trách nhiệm, anh sung sướng xuống dưới ngủ.
Lát sau, thuyền trưởng lay anh dậy, cúi chào, giơ chân giơ tay ra hiệu cho Blackthorne chuẩn bị sẵn sàng để đi với Hiromatsu ngay khi họ cập bến.
"Wakari masu ka, Anjin-san?"
"Hai."
Chàng thủy thủ bỏ đi. Blackthorne duỗi lưng, đau nhói, anh thấy Rodrigues đang nhìn anh.
"Cậu cảm thấy thế nào?"
"Tốt, Ingeles ạ. Có điều chân tớ đang bốc lửa, đầu tớ đang vỡ tung, tớ muốn tè và miệng tớ đắng như một thùng cứt lợn."
Blackthorne đưa cho anh ta cái bô rồi đổ ra ngoài lỗ cửa sổ. Anh lại đổ đầy rượu.
"Cậu làm y tá dở quá đi, Ingeles. Chủ yếu là do cái quả tim đen của cậu." Rodrigues cười, nghe lại tiếng cười của anh ta thật là một điều tốt đẹp. Mắt anh ta hướng về cuốn hải trình để mở trên bàn và tủ đi biển của anh ta. Anh ta thấy nó vẫn còn khóa.
"Tớ có đưa cho cậu chìa khóa không nhỉ?"
"Không. Tớ đã lục tìm người cậu. Tớ phải có hải trình thật. Tớ đã nói với cậu khi cậu tỉnh đêm đầu tiên."
"Vậy là tốt. Tớ không nhớ nữa, nhưng vậy là tốt."
"Này, Ingeles này, cậu hãy hỏi bất cứ một anh Jesuit nào ở Vasco, Rodrigues ở đâu, họ sẽ chỉ cho cậu đến tớ. Cậu hãy đến thăm tớ, cậu có thể chép một bản hải trình của tớ nếu cậu muốn."
"Cám ơn, tớ đã chép một bản rồi. Ít nhất, tớ đã chép cái có thể được và tớ đã đọc phần còn lại rất cẩn thận."
"Mẹ cậu!" Rodrigues nói bằng tiếng Spain.
"Mẹ cậu nữa!"
Rodrigues quay sang tiếng Portugal:" Nói tiếng Spain làm tớ buồn nôn, mặc dầu để chửi thì tiếng đó tốt hơn bất cứ tiếng nào. Có một bọc trong tủ đi biển của tớ. Làm ơn đưa hộ."
"Cái có dấu của lão Jesuit ấy à?"
Anh đưa cho Rodrigues. Anh ta xem xét nó, lấy ngón tay sờ vào dấu niêm phong còn nguyên vẹn, rồi hình như đổi ý để nó trên chăn và lại ngả đầu xuống.
"A, Ingeles, cuộc sống lạ thật."
"Tại sao?"
"Tớ sống được là do ơn Chúa, được một kẻ dị giáo và một tên Nhật giúp đỡ. Nói cái thằng ăn cứt sốt xuống đây để tớ cám ơn nó, được không?"
"Bây giờ à?"
"Sau đó."
"Được?:
"Cái hạm đội của cậu, cái hạm đội mà cậu nói đã tấn công Manila, cái mà cậu kể với ông thầy tu, sự thật là thế nào, Ingeles?"
"Một hạm chiến thuyền của chúng tớ sẽ đập tan đế quốc ở châu Á của các cậu. đúng không?"
"Có một hạm đội à?"
"Tất nhiên."
"Hạm đội của các cậu có bao nhiêu tàu?"
"Năm. Tàu khác còn ở ngoài biển, đoạn đường cách một tuần chi đó. Tớ đi trước để thăm dò Nhật Bản và đã gặp bão."
"Lại nói dối nữa, Ingeles. Nhưng tớ không cần. Tớ đã nói với những tàu săn bắt tớ như vậy. Không còn tàu hay hạm đội gì nữa đâu."
"Đợi đấy rồi xem."
"Tớ sẽ đợi." Rodrigues uống rất nhiều rượu.
Blackthorne duỗi chân duỗi tay rồi tới lỗ cửa sổ bên thành tàu, anh muốn ngừng cuộc nói chuyện này, nhìn lên bờ và thành phố." Mình cứ nghĩ London là thành phố lớn nhất mặt đất này, nhưng so với Osaka, nó chỉ là một tỉnh nhỏ."
"Họ có hàng chục thành phố như thế này." Rodrigues nói, cũng sung sướng chấm dứt cái trò chơi mèo vờn chuột không có hiệu quả gì nếu không phải là đau đớn.
"Miyako, thủ đô, hay Kyoto như thỉnh thoảng nó được gọi, là thành phố lớn nhất đế quốc, lớn gấp đôi Osaka, họ nói như thế. Rồi đến Yedo, thủ phủ của Toranaga. Tớ chưa bao giờ tới đó, cũng chưa có một cha cố hay một người Portugal nào - Toranaga giữ chặt thủ phủ của mình - một cấm thành. Tuy nhiên", Rodrigues nói thêm, nằm lại trên giường, mắt nhắm lại, bộ mặt anh giãn ra vì đau,
"Tuy nhiên, dù là chỗ nào cũng chẳng có gì khác nhau. Toàn bộ nước Nhật chính thức cấm đối với chúng ta, trừ cảng Nagasaki và Hirado. Các cha cố của chúng tôi không chú ý nhiều đến luật lệ, chỗ nào họ thích họ đi. Nhưng những thủy thủ chúng ta, hoặc những nhà buôn thì không được, trừ khi có giấy phép đặc biệt của Hội đồng Nhiếp chính hoặc một Daimyo lớn như Toranaga chẳng hạn. Bất cứ một Daimyo nào cũng có thể bắt giữ tàu của chúng ta - như Toragana đã bắt giữ cậu đó - bên ngoài Nagasaki hay Hirado. Đó là luật pháp của họ."
"Cậu có muốn nghỉ bây giờ không?"
"Không, Ingeles ạ. Nói chuyện tốt hơn. Nói chuyện làm bớt đau. Đức Mẹ ơi, đầu tôi đau quá! Tớ không thể nào suy nghĩ được rõ ràng. Chúng ta hãy nói chuyện cho đến khi cậu lên bờ. Cậu quay lại thăm tớ, còn nhiều điều tớ muốn hỏi cậu. Cho tớ chút rượu nữa. Cám ơn, cám ơn Ingeles."
"Tại sao các cậu lại bị cấm không được đến những nơi cậu thích?"
"Cái gì? Ồ ở đây, ở Nhật Bản này à? Do Taiko - ông này bắt đầu mọi sự rắc rối. Kể từ những ngày đầu bọn tớ đến đây năm 1542 để bắt đầu công việc của Chúa và đem văn minh đến cho họ, bọn tớ và các cha cố của chúng tớ có thể đi lại một cách tự do, nhưng khi Taiko nắm được toàn bộ quyền bính, ông ta bắt đầu cấm đoán. Nhiều người tin rằng... cậu có thể chuyển cái chân của tớ một chút, bỏ cái chăn ra khỏi chân tớ, nó đang bốc lửa... ừ, ồ Đức Mẹ ơi, cẩn thận chút - thế, cám ơn Ingeles. Ừ tớ nói đến chỗ nào nhỉ? À, phải rồi, nhiều người tin rằng Taiko là cái buồi của Satan. Mười năm trước, lão ban sắc lệnh chống cha cố, Ingeles ạ, và tất cả những ai muốn truyền lời của Chúa. Lão trục xuất bất cứ ai, trừ những lái buôn, mười, mười hai năm trước. Đó là thời gian trước khi tớ tới vùng biển này - tớ đã đi tới đi lui ở đây bảy năm rồi. Các vị cha cố nói đó là tại các thầy tu ngoại đạo những người theo đạo Phật - những kẻ thờ thần tượng thối tha đầy ghen ghét, bọn chúng làm cho Taiko chống lại các vị cha cố của chúng ta, nói dối nói trá trong khi các cha cố đã gần cải đạo được cho lão. Phải, chính tên sát nhân vĩ đại suýt nữa cũng đã được cứu rỗi linh hồn. Nhưng lão đã lỡ một dịp để cứu chuộc. Phải. Ừ, lão ta ra lệnh cho tất cả các thầy tu của chúng tà phải rời Nhật Bản... Có phải tớ đã nói với cậu đó là hơn mười năm trước rồi không?"
Blackthorne gật đầu, sung sướng để cho người ta nói huyên thuyên, sung sướng nghe, nóng lòng muốn biết.
"Taiko cho tập trung tất cả các cha cố tại Nagasaki, chuẩn bị đưa họ xuống tàu tới Macao với lệnh viết không bao giờ được quay lại, nếu không sẽ bị tử hình. Rồi đột nhiên, lão ta để mặc kệ họ và không làm gì nữa. Tớ đã nói với cậu, bọn Nhật Bản là một lũ lộn tùng phèo. Ừ, lão để mặc họ, và chẳng bao lâu, tình hình lại như cũ, có điều là hầu hết các cha đều ở Kyushu, nơi bọn tớ được đón tiếp. Tớ đã nói với cậu Nhật Bản được tạo thành bởi ba bán đảo lớn Kyushu, ShiKoku và Honshu rồi chứ? Và hàng ngàn đảo nhỏ. Còn một hòn đảo nữa ở tít miền Bắc một số người nói đó là lục địa - gọi đó là Hokkaido, nhưng chỉ những người bản xứ mọc lông mọc lá sống ở đó."
"Nhật Bản là một thế giới lộn ngược, Ingeles ạ. Cha Alvito nói với tớ là tất cả lại như chưa có chuyện gì xảy ra cả. Taiko lại thân thiện như trước, mặc dù ông ta không bao giờ cải đạo. Ông ta hầu như chỉ đóng cửa một nhà thờ và trục xuất hai hoặc ba Daimyo theo Thiên Chúa giáo - nhưng như vậy là cốt chiếm lấy đất của họ - chứ không hề ban lệnh trục xuất. Thế rồi, ba năm trước đây lão lại nổi điên, hành hình hai mươi sáu cha cố. Lão đóng đinh câu rút họ ở Nagasaki. Không vì lý do gì. Lão ta là một thằng thần kinh, Ingeles ạ. Nhưng sau khi tàn sát hai mươi sáu người, lão không làm gì nữa. Chẳng bao lâu sau đó lão chết. Đó là bàn tay Chúa, Ingeles ạ. Lời nguyền của Chúa giáng xuống lão và dòng giống của lão. Tớ chắc chắn như vậy."
"Cậu có được nhiều người cải đạo ở đây không?"
Nhưng hình như Rodrigues không nghe, lạc đi trong suy nghĩ của mình.
"Bọn chúng là súc vật, bọn Nhật Bản ấy. Tớ đã nói với cậu về cha Alvito chưa nhỉ? Cha là một người phiên dịch - Tsukku-san, họ gọi Cha, ông Phiên Dịch. Cha là người phiên dịch của Taiko, Ingeles ạ, bây giờ cha là phiên dịch chính thức của Hội đồng Nhiếp chính và cha nói tiếng Nhật tốt hơn hầu hết người Nhật Bản và biết nhiều về họ hơn bất cứ người nào đương thời. Cha nói với tớ có một mô đất cao năm mươi.
"Feet" ở Miyako - đó là thủ đô, Ingeles ạ. Taiko cắt mũi, cắt tai tất cả những người Triều Tiên bị giết trong chiến tranh gom lại và chôn ở đó - Triều Tiên là một bộ phận của lục địa, miền Tây Kyushu. Đó là sự thật! Thề có Đức Mẹ Đồng Trinh, chưa bao giờ có một tên giết người nào như lão - mà tất cả chúng nó đều tệ như thế cả." Đôi mắt của Rodrigues nhắm lại, trán nóng rực lên.
"Các cậu có nhiều người cải đạo không?" Blackthorne cẩn thận hỏi lại, hết sức muốn biết có bao nhiêu kẻ thù ở đây.
Kiềm chế sự choáng váng của mình, Rodrigues nói:
"Hàng trăm nghìn người, hàng năm lại có nhiều hơn. Từ sau khi Taiko chết, chúng tớ có nhiều hơn bao giờ hết so với trước đây, và những người trước kia đi nhà thờ một cách lén lút thì bây giờ đi đàng hoàng. Hầu hết đảo Kyushu bây giờ là công giáo. Hầu hết Daimyo của đảo Kyushu đã cải đạo.
Nagasaki là một thành phố công giáo, Jesuit làm chủ nó, điều hành và kiểm soát mọi công việc buôn bán. Mọi công việc buôn bán đều đi qua Nagasaki. Chúng tớ có một giáo đường, một chục nhà thờ, một chục nhà thờ khác nữa trải khắp Kyushu, nhưng chỉ có một ít ở đây, ở bán đảo chính này, Honshu và..." Cơn đau lại làm anh ta ngưng lại. Một lát sau, anh ta tiếp tục.
"Chỉ riêng Kyushu có ba hay bốn triệu người - chẳng bao lâu nữa, tất cả sẽ đều là công giáo. Có trên hai mươi triệu người Nhật nữa ở các bán đảo và chẳng bao lâu..."
"Không thể được!" Blackthorne lập tức tự rủa mình vì đã ngăn luồng thông tin đó.
"Tại sao tớ phải nói dối? Mười năm trước đây có cuộc điều tra dân số. Cha Alvito nói Taiko đã ra lệnh đó. Cha hẳn phải biết. Cha ở đó mà. Tại sao tớ phải nói dối?" Mắt Rodrigues sốt hừng hực, miệng anh ta nói liên tục bất tận." Như vậy sẽ nhiều hơn số dân của tất cả Portugal, tất cả Spain, tất cả Pháp, tất cả Nêđơlan, thêm cả England và cậu có thể quẳng cả Đế quốc La Mã thần thánh vào cho cân bằng!"
Chúa Jesus, Blackthorne nghĩ, cả cái England cũng không hơn ba triệu người. Và lại còn bao gồm cả xứ Wales nữa."
"Nếu có nhiều người Nhật đến như vậy, chúng ta biết đương đầu với họ thế nào? Nếu có hai mươi triệu, như vậy có nghĩa là họ có thể dễ dàng đè bẹp một đội quân đông hơn chúng ta có trong toàn dân, nếu họ muốn. Và nếu như tất cả họ đều hung dữ như những tên ta đã thấy - mà tại sao họ lại không như thế - thề có những vết thương của Chúa - họ sẽ là không thể nào địch nổi. Và nếu như họ đã trở thành công giáo một bộ phận, và nếu những người Jesuit đã có nhiều ở đây, số lượng của họ sẽ tăng lên và không có kẻ nào cuồng tín hơn một kẻ cuồng tín cải đạo, vậy thì mình và những người Holland còn có cơ hội gì ở châu Á này nữa?"
"Không có gì hết."
"Nếu cậu nghĩ như vậy là nhiều, Rodrigues nói,
"Thì hãy đợi đến khi cậu sang Trung Quốc. Ở đó toàn người da vàng, tóc đen, mắt đen. Ồ, Ingeles ạ, nói để cậu biết, cậu còn nhiều điều mới lạ để mà học lắm. Năm ngoái, tớ ở Quảng Đông, nơi bán lụa. Quảng Đông là một trường thành ở miền nam Trung Quốc, trên sông Châu Giang, miền Bắc của thành phố chúng ta mang tên Chúa ở Macao.
Chỉ riêng trong trường thành đó cũng đã có một triệu người dị giáo ăn thịt chó - Trung Quốc có dân số đông hơn tổng số phần còn lại của thế giới. Hẳn là như thế. Nghĩ mà coi!" Một cơn đau đến với Rodrigues, bàn tay lành của anh ta ôm lấy bụng.
"Trong người tớ có chỗ nào chảy máu không? Có chỗ nào không?"
"Không. Tớ đã xem kỹ rồi. Chỉ chân và vai cậu thôi. Cậu không bị thương ở bên trong đâu, Rodrigues ạ - ít nhất thì tớ cũng không nghĩ như thế."
"Chân có tệ lắm không?"
"Nó đã được biển gột rửa. Lúc này chỗ gãy sạch và da cũng sạch."
"Cậu có đổ rượu vào chỗ đó và đốt không?"
"Không. Bọn họ không để mình làm - họ ra lệnh cho mình lui ra. Nhưng ông bác sĩ hình như biết công việc của ông ta. Người của cậu có tới đây bây giờ không?"
"Có. Ngay khi chúng ta đưa tàu vào bến. Chắc hẳn là như vậy."
"Tốt. Cậu đang nói gì nhỉ? Về Trung Quốc và Quảng Đông?"
"Có lẽ mình đang nói quá nhiều. Có đủ thì giờ để nói về chúng."
Blackthorne nhìn bàn tay lành của Rodrigues đang nghịch cái gói niêm phong và lại tự hỏi không hiểu nó có ý nghĩa gì.
"Chân cậu sẽ không sao đâu. Trong tuần này cậu sẽ biết thôi."
"Ừ, Ingeles."
"Tớ nghĩ nó không bị thối - không có mủ - cậu suy nghĩ được rõ ràng, mạch lạc, vậy là óc cậu không sao. Cậu sẽ khỏe, Rodrigues."
"Tớ vẫn nợ cậu ơn cứu mạng." Một sự rùng mình chạy lan khắp người anh Portugal.
"Khi bị chìm xuống, tớ chỉ còn nghĩ được là những con cua sẽ bò vào qua mắt tớ. Tớ đã có thể cảm thấy chúng quẫy lộn trong người tớ. Ingeles ạ, đây là lần thứ ba tớ bị hất ra khỏi tàu, lần sau bao giờ cũng lẹ hơn lần trước."
"Tớ bị chìm dưới bể bốn lần. Ba lần bởi bọn Spain."
Cửa cabin mở, thuyền trưởng cúi chào và ra hiệu cho Blackthorne lên.
"Hai!" Blackthorne đứng lên.
"Cậu không nợ mình cái gì hết, Rodrigues", anh nói một cách nhân từ.
"Cậu đã cho tớ cuộc sống và cứu trợ khi tớ tuyệt vọng - và tớ cám ơn cậu vì điều ấy. Chúng ta thế là huề."
"Có lẽ, nhưng hãy nghe này, Ingeles, đây là đôi điều chân thật cho cậu, để đền đáp lại một phần: đừng bao giờ quên rằng người Nhật là sáu mặt và ba trái tim. Họ có một câu châm ngôn: một người có một trái tim giả ở miệng cho tất cả cuộc đời thấy, một trái tim khác ở trong ngực cho những bạn bè đặc biệt và gia đình mình, một trái tim thật, một trái tim chân chính, một trái tim bí mật mà không một người nào biết ngoài chính anh ta, ẩn nấp ở chỗ nào chỉ có Chúa mới biết được. Họ phản phúc không thể tưởng tượng nổi, xấu xa ác độc không thể cứu chuộc."
"Tại sao Toranaga lại muốn gặp tớ?"
"Tớ không biết. Có Đức Mẹ Đồng Trinh! Tớ không biết. Hãy trở lại thăm tớ, nếu có thể được."
"Ừ, chúc may mắn, Spain!"
"Đồ tinh trùng! Dù thế, cầu Chúa phù hộ cho ngươi."
Blackthorne mỉm cười đáp lại, thoải mái, sau đó anh lên boong, đầu óc vẫn còn quay cuồng về Osaka, cái mênh mông của nó, người chen chúc như kiến và cái lâu đài khổng lồ chế ngự thành phố. Từ cái mênh mông trong lâu đài, vút lên vẻ đẹp của tháp pháo đài - pháo đài trung tâm - cao bảy hay tám tầng, những đầu hồi nhọn, mái cong, ngói nạm vàng và tường màu xanh.
Toranaga sẽ ở đó, anh nghĩ, một lưỡi câu đá đột nhiên nhói lên trong bụng anh.
Một chiếc kiệu kín đưa anh tới một ngôi nhà lớn. Ở đấy anh được tắm rửa và ăn, vẫn là canh cá, cá tươi và hấp, vài lát rau muối và nước lá nóng. Thay cho cháo lúa mạch, nhà này cho anh một bát cơm. Anh đã nhìn thấy cơm một lần ở Naplơ. Nó trắng và hoàn hảo, nhưng đối với anh, nó chẳng có vị gì cả. Dạ dày anh cồn cào đòi thịt và bánh mỳ, những chiếc bánh mới nướng giòn tan đẫm bơ, một cái đùi bò, bánh patê, thịt gà, bia và trứng.
Hôm sau một người hầu gái tới. Quần áo Rodrigues cho anh đã được giặt là. Cô ta nhìn anh mặc quần áo và giúp anh đi.
"Tabi" mới. Bên ngoài có một đôi dép da mới. Ủng của anh biến mất. Cô gái lắc đầu, chỉ vào đôi dép rồi chỉ vào chiếc kiệu buông rèm. Một đội Samurai vây quanh. Người đội trưởng ra hiệu cho anh nhanh lên, vào kiệu.
Họ đi ngay lập tức. Rèm buông kín mít. Sau một thời gian bất tận, chiếc kiệu dừng lại.
"Ngươi không được sợ", anh nói to và bước ra.
Cổng đá khổng lồ của lâu đài ở trước mặt anh. Cổng đặt trong một bức tường ba mươi.
"Feet.
"Với những lỗ châu mai liên hoàn, pháo đài và những công sự phụ. Cánh cửa khổng lồ bọc sắt, và khung lưới sắt đúc đã kéo lên. Phía xa là một cầu gỗ rộng hai mươi bước, dài hai trăm bước bắc qua hào và chấm dứt bằng một cái cầu cất khổng lồ và một cổng khác lắp trong tường thứ hai, cũng lớn như thế.
Hàng trăm Samurai ở khắp nơi. Tất cả đều mặc đồng phục màu xám - kimono có thắt lưng, cái nào cũng có năm huy hiệu nhỏ hình tròn, mỗi cánh tay một cái, mỗi bên ngực một cái và một cái ở giữa lưng. Huy hiệu màu xanh hình như là bông hoa của những bông hoa.
"Anjin-san!"
Hiromatsu ngồi cứng người trên một cái kiệu để mở, bốn người khiêng mặc chế phục. Kimono của ông nâu và thẳng cứng, thắt lưng đen, giống như của năm mươi Samurai bao quanh ông. Kimono của họ cũng có năm huy hiệu, nhưng chúng màu đỏ tía, giống như màu huy hiệu bay phần phật ở đầu cột buồm, biểu trưng của Toranaga. Những Samurai này mang giáo dài sáng loáng với những lá cờ nhỏ xíu trên đầu.
Blackthorne cúi chào không suy nghĩ, choáng vì dáng vẻ uy nghi của Hiromatsu. Ông già chào lại một cách hình thức, thanh trường kiếm buông lơi trên lòng, ra hiệu cho anh theo.
Viên sĩ quan ở cổng tiến lên. Một nghi lễ đọc tờ giấy Hiromatsu đưa ra được tiến hành, nhiều người cúi chào và nhìn về phía Blackthorne, rồi họ đi qua, về phía cầu, được hộ tống bởi đội quân y phục màu xám.
Con hào sâu năm mươi.
"Feet", chạy dài khoảng ba trăm bước, rồi men theo những bức tường quay về phương Bắc, và Blackthorne nghĩ, lạy Chúa, mình ghét nếu như phải tấn công vào đây. Những người bảo vệ có thể để cho tường thành phía ngoài đổ sụp và đốt cầu, và như vậy họ sẽ yên ổn ở phía trong. Lạy Đức Chúa, tường phía ngoài phải dày đến hai, ba mươi.
"Feet" - tường phía trong cũng thế. Và nó được làm bằng những phiến đá khổng lồ. Mỗi phiến phải dày đến mười.
"Feet." Ít nhất là như thế. Xếp gọn gàng lớp lớp, không cần phải vữa. Chúng phải nặng ít nhất là năm mươi tấn. Tốt hơn bất cứ loại tường thành nào chúng ta có thể làm. Súng công thành? Tất nhiên chúng có thể đập vỡ tường phía ngoài nhưng súng bảo vệ cũng sẽ phản công lại mạnh mẽ như vậy. Cũng khó đưa nổi tới đây, và không có một điểm nào cao hơn để câu pháo vào lâu đài. Nếu như tường ngoài bị hạ, những người bảo vệ nó vẫn có thể đánh bật kẻ tấn công khỏi pháo đài. Nhưng cho dù súng công thành có thể chuyển được tới đó và quay nòng về phía tường tiếp theo để công phá, thì cũng chẳng ăn thua gì. Họ có thể phá hỏng được cánh cổng ở xa, nhưng như vậy thì làm nên trò trống gì? Làm sao vượt qua được hào? Nó quá rộng, không dùng những phương pháp bình thường được. Lâu đài không gì có thể lay chuyển nổi. Có bao nhiêu binh lính ở trong này? Bao nhiêu thị dân trú ngụ ở bên trong?
Nó làm cho Tháp London giống như một cái chuồng lợn. Và cả Hamtơn Cooc chỉ vừa một góc nhỏ.
Ở cổng tiếp theo lại có thủ tục kiểm tra giấy tờ long trọng khác, con đường rẽ qua tay trái, xuôi xuống một đại lộ rộng mênh mông, hai bên là những ngôi nhà kiếu cổ đằng sau những bức tường lớn nhỏ dễ bảo vệ, dẫn vào một mê lộ của những bậc thang và những con đường. Rồi lại một cổng khác và kiểm tra giấy tờ nữa, một khung lưới sắt và một hào nữa rộng mênh mông, nhiều lối rẽ ngang rẽ dọc, cho đến tận khi Blackthorne, một người quan sát rất nhậy, với một trí nhớ và một đầu óc biết định hướng phi thường, đã phải rối trí trong cái mê trận cố ý này. Và trong suốt thời gian đó, không biết bao nhiêu là quân Xám từ những dốc đứng, từ những thành lũy, những pháo đài, công sự nhìn xuống họ. Và còn nhiều hơn nữa đi lại, canh phòng, luyện tập, chăn ngựa ở những chuồng để mở. Binh lính ở khắp mọi nơi, đông có đến hàng ngàn. Tất cả đều được vũ trang tốt và mặc quần áo cẩn thận.
Anh tự rủa mình không khôn khéo để thu lượm nhiều tin tức hơn của Rodrigues. Ngoài những tin tức về Taiko và những người cải đạo cũng đã đủ làm anh choáng váng, còn thì Rodrigues ngậm miệng như một người đàn ông, như địa vị anh, tránh những câu hỏi.
Hãy tập trung vào tìm ra manh mối. Có gì đặc biệt về tòa lâu đài này? Một tòa lâu đài lớn nhất. Không, có một cái gì khác. Cái gì?
Có phải quân Xám cừu thù với quân Nâu không? Mình không thể biết được. Người nào cũng quá trang nghiêm.
Blackthorne quan sát họ cẩn thận và tập trung vào những chi tiết. Phía bên trái là một khu vườn nhiều màu được chăm sóc cẩn thận với những chiếc cầu nhỏ và một dòng suối con. Những bức tường bây giờ ở sát gần nhau hơn và những con đường hẹp hơn. Họ đã tới gần tháp canh. Trong này không có thị dân, chỉ có hàng trăm đầy tớ và không có đại bác! Đó là chỗ khác nhau!
Mình không nhìn thấy một khẩu đại bác nào. Không một khẩu nào.
Lạy Chúa trên trời, không có đại bác - vì vậy không cố súng công thành!
Nếu có vũ khí hiện đại và không có người bảo vệ, anh có thể phá đổ những bức tường, những cánh cửa, nã đạn lửa vào lâu đài, đốt nó và chiếm lấy không?
Anh không thể vượt qua hào thứ nhất.
Với súng thần công, anh có thể gây khó khăn cho những người bảo vệ, nhưng họ có thể cầm cự được mãi, nếu như đơn vị đồn trú quyết tâm, nếu có đủ quân, đủ lương thực, nước và đạn được.
Làm sao để vượt qua hào? Bằng thuyền ư? Bằng bè mảng có tháp ư?
Trí óc anh cố gắng nghĩ ra một kế hoạch khi chiếc kiệu dừng. Hiromatsu xuống. Họ ở trong một ngõ cụt hẹp. Một cánh cửa gỗ bịt thép khổng lồ dẫn tới một bức tường cao hai mươi.
"Feet" hòa vào những công sự phụ của điểm bảo vệ phía trên, còn cách tháp canh xa, từ chỗ này nhìn vào trông nó tối. Không giống tất cả các lối vào khác, chỗ này do quân Nâu gác. Blackthorne thấy quân Nâu chỉ có bên trong lâu đài. Rõ ràng là họ rất mừng khi thấy Hiromatsu.
Quân Xám quay lại và bỏ đi. Blackthorne để ý thấy những cái nhìn thù địch của quân Nâu đối với họ. Như vậy họ là kẻ thù của nhau!
Cánh cửa mở tung, anh theo ông tướng già vào trong. Một mình. Các Samurai khác ở bên ngoài.
Sân bên trong có nhiều quân Nâu hơn, đang gác cả khu vườn đằng xa nữa. Họ đi qua vườn, vào trong pháo đài, Hiromatsu đá đôi dép ra, Blackthorne cũng làm như thế. Hành lang bên trong được trải chiếu hoa lộng lẫy, loại chiếu cói, sạch và mát chân, trải sàn mọi nhà trừ những nhà nghèo nhất. Từ trước Blackthorne đã để ý, tất cả đều cùng một kích thước, khoảng sáu.
"Feet" và ba.
"Feet." Lạ thật, anh tự nhủ, chưa bao giờ mình thấy những cái chiếu hình thù và kích thước như vậy. Và cũng chưa bao giờ thấy một căn phòng đều vuông hoặc chữ nhật? Tất nhiên! Điều đó có nghĩa là tất cả các ngôi nhà - hoặc phòng - phải được cấu tạo để trải một lượng chiếu nhất định nào đó. Tất cả đều là chuẩn mực. Lạ thay!
Họ trèo lên những bậc thang vòng vèo, đi dọc theo một số hành lang và cầu thang nữa. Có rất nhiều lính gác, luôn luôn là quân Nâu. Những vệt nắng từ lỗ châu mai hắt ra những mẫu hình phức tạp. Blackthorne có thể nhìn thấy, bây giờ họ đã ở trên cao ba bức tường cuốn. Thành phố và bến cảng như một tấm mền hoa phía dưới.
Hành lang rẽ ngoặt đột ngột và kết thúc cách đó năm mươi bước.
Blackthorne như có mật đắng trong miệng. Đừng lo, anh tự nhủ, mình đã quyết định phải làm gì. Mình đã liên quan rồi.
Các Samurai đứng tập trung, viên sĩ quan trẻ của họ đứng phía trước, bảo vệ cửa cuối cùng - người nào cũng tay phải nắm đốc kiếm, tay trái giữ bao kiếm bất động và sẵn sàng, mắt chằm chằm nhìn hai người đang tiến lại.
Hiromatsu thấy vững dạ vì sự sẵn sàng của họ. Ông đã đích thân chọn những người gác này. Ông ghét tòa lâu đài này, ông lại nghĩ, thật nguy hiểm biết bao khi để Toranaga ở trong quyền lực của kẻ thù. Ông đã định chạy băng đến Toranaga để kể cho Người nghe những điều đã xảy ra và để xem xem có chuyện gì không hay xảy ra trong khi ông vắng mặt hay không. Nhưng mọi sự vẫn yên ắng, mặc dù do thám của họ báo cáo là kẻ thù đã tăng cường lực lượng quân sự ở phía Bắc và phía Đông và những đồng minh chính của họ, những Nhiếp chính, Onoshi và Kiyama - những Daimyo lớn nhất theo Thiên Chúa giáo, đã theo về với Ishido. Ông đã đổi lính gác, khẩu lệnh và lại xin Toranaga nên rời đi nhưng không có kết quả gì.
Cách viên sĩ quan mười bước, Blackthorne dừng lại.
Cuộc hành trình của họ từ vịnh đến Osaka không có sự cố gì. Hải trình của Rodrigues rõ ràng và rất chính xác. Trong đêm đầu tiên, Rodrigues tỉnh lại. Lúc đầu, anh ta nghĩ đã chết, nhưng cơn đau chẳng bao lâu đã làm anh ta phải nghĩ khác đi.
"Họ đã chữa chân và băng bó cho cậu", Blackthorne nói.
"Cả vai cậu cũng được bó lại. Nó bị trật khớp. Họ không chích máu cho cậu dù mình cố gắng thuyết phục họ đến mấy."
"Khi tớ tới Osaka, những người Jesuit sẽ làm cái đó." Cặp mắt bị giày vò của Rodrigues hõm sâu.
"Làm sao mình tới đây, Ingeles? Mình nhớ là bị hất ra khỏi tàu, thế thôi, không còn nhớ gì khác."
Blackthorne kể lại cho anh ta nghe.
"Vậy là bây giờ tớ nợ cậu ơn cứu tử. Chúa nguyền rủa cậu!"
"Từ trên sàn tàu trông hình như mình có thể tới được vịnh. Từ phía mũi, góc nhìn có thể sai lạc vài độ. Sóng thật là rủi ro."
"Điều ấy không làm tớ lo ngại, Ingeles ạ. Cậu có sàn tàu, cậu có bánh lái. Cả hai chúng ta đều biết điều ấy. Không, tớ nguyền rủa cậu bởi vì bây giờ tớ nợ cậu một cuộc đời Lạy Đức Mẹ! Cái chân tớ!." Nước mắt anh ta trào lên vì đau. Blackthorne trao cho anh ta một bình rượu và trông nom anh ta. Ban đêm, cơn bão ngớt. Ông bác sĩ người Nhật tới mấy lần và buộc Rodrigues uống thuốc nóng, đắp khăn mặt nóng lên trán anh ta và mở lỗ cửa sổ. Mỗi khi bác sĩ đi khỏi, Blackthorne lại đóng cửa sổ bởi vì mọi người đều biết là bệnh đó sợ gió và cabin càng kín thì càng an toàn, khỏe mạnh, khi một người ốm như Rodrigues. Cuối cùng, bác sĩ quát anh và cắt một Samurai gác ở lỗ cửa sổ, bắt phải để mở.
Lúc rạng sáng, Blackthorne lên boong. Cả Hiromatsu và Yabu đều có mặt ở đó. Anh chào như một kỹ nữ.
"Konnichie wa Osaka?"
Họ chào đáp lại:
"Osaka, hai, Anjin-san." Hiromatsu nói:
"Hai! Isogi, Hiromatsu-san! Nhổ neo!"
"Hai! Anjin-san!"
Anh bất giác mỉm cười với Yabu. Yabu mỉm cười đáp lại rồi khập khiễng đi và suy nghĩ. Thật là một con người gớm ghê, dù cho hắn có là một con quỷ, một tên sát nhân. Cả ngươi chẳng phải cũng là một tên sát nhân ư? Đúng, nhưng không phải là kiểu đó, lão tự nhủ.
Blackthorne dẫn tàu về Osaka một cách dễ dàng. Cuộc hành trình mất ngày hôm ấy, đêm hôm ấy và ngay sau lúc rạng đông hôm sau, họ đã ở gần những con đường Osaka. Một hoa tiêu Nhật Bản lên tàu đưa con tàu về bến. Được hết trách nhiệm, anh sung sướng xuống dưới ngủ.
Lát sau, thuyền trưởng lay anh dậy, cúi chào, giơ chân giơ tay ra hiệu cho Blackthorne chuẩn bị sẵn sàng để đi với Hiromatsu ngay khi họ cập bến.
"Wakari masu ka, Anjin-san?"
"Hai."
Chàng thủy thủ bỏ đi. Blackthorne duỗi lưng, đau nhói, anh thấy Rodrigues đang nhìn anh.
"Cậu cảm thấy thế nào?"
"Tốt, Ingeles ạ. Có điều chân tớ đang bốc lửa, đầu tớ đang vỡ tung, tớ muốn tè và miệng tớ đắng như một thùng cứt lợn."
Blackthorne đưa cho anh ta cái bô rồi đổ ra ngoài lỗ cửa sổ. Anh lại đổ đầy rượu.
"Cậu làm y tá dở quá đi, Ingeles. Chủ yếu là do cái quả tim đen của cậu." Rodrigues cười, nghe lại tiếng cười của anh ta thật là một điều tốt đẹp. Mắt anh ta hướng về cuốn hải trình để mở trên bàn và tủ đi biển của anh ta. Anh ta thấy nó vẫn còn khóa.
"Tớ có đưa cho cậu chìa khóa không nhỉ?"
"Không. Tớ đã lục tìm người cậu. Tớ phải có hải trình thật. Tớ đã nói với cậu khi cậu tỉnh đêm đầu tiên."
"Vậy là tốt. Tớ không nhớ nữa, nhưng vậy là tốt."
"Này, Ingeles này, cậu hãy hỏi bất cứ một anh Jesuit nào ở Vasco, Rodrigues ở đâu, họ sẽ chỉ cho cậu đến tớ. Cậu hãy đến thăm tớ, cậu có thể chép một bản hải trình của tớ nếu cậu muốn."
"Cám ơn, tớ đã chép một bản rồi. Ít nhất, tớ đã chép cái có thể được và tớ đã đọc phần còn lại rất cẩn thận."
"Mẹ cậu!" Rodrigues nói bằng tiếng Spain.
"Mẹ cậu nữa!"
Rodrigues quay sang tiếng Portugal:" Nói tiếng Spain làm tớ buồn nôn, mặc dầu để chửi thì tiếng đó tốt hơn bất cứ tiếng nào. Có một bọc trong tủ đi biển của tớ. Làm ơn đưa hộ."
"Cái có dấu của lão Jesuit ấy à?"
Anh đưa cho Rodrigues. Anh ta xem xét nó, lấy ngón tay sờ vào dấu niêm phong còn nguyên vẹn, rồi hình như đổi ý để nó trên chăn và lại ngả đầu xuống.
"A, Ingeles, cuộc sống lạ thật."
"Tại sao?"
"Tớ sống được là do ơn Chúa, được một kẻ dị giáo và một tên Nhật giúp đỡ. Nói cái thằng ăn cứt sốt xuống đây để tớ cám ơn nó, được không?"
"Bây giờ à?"
"Sau đó."
"Được?:
"Cái hạm đội của cậu, cái hạm đội mà cậu nói đã tấn công Manila, cái mà cậu kể với ông thầy tu, sự thật là thế nào, Ingeles?"
"Một hạm chiến thuyền của chúng tớ sẽ đập tan đế quốc ở châu Á của các cậu. đúng không?"
"Có một hạm đội à?"
"Tất nhiên."
"Hạm đội của các cậu có bao nhiêu tàu?"
"Năm. Tàu khác còn ở ngoài biển, đoạn đường cách một tuần chi đó. Tớ đi trước để thăm dò Nhật Bản và đã gặp bão."
"Lại nói dối nữa, Ingeles. Nhưng tớ không cần. Tớ đã nói với những tàu săn bắt tớ như vậy. Không còn tàu hay hạm đội gì nữa đâu."
"Đợi đấy rồi xem."
"Tớ sẽ đợi." Rodrigues uống rất nhiều rượu.
Blackthorne duỗi chân duỗi tay rồi tới lỗ cửa sổ bên thành tàu, anh muốn ngừng cuộc nói chuyện này, nhìn lên bờ và thành phố." Mình cứ nghĩ London là thành phố lớn nhất mặt đất này, nhưng so với Osaka, nó chỉ là một tỉnh nhỏ."
"Họ có hàng chục thành phố như thế này." Rodrigues nói, cũng sung sướng chấm dứt cái trò chơi mèo vờn chuột không có hiệu quả gì nếu không phải là đau đớn.
"Miyako, thủ đô, hay Kyoto như thỉnh thoảng nó được gọi, là thành phố lớn nhất đế quốc, lớn gấp đôi Osaka, họ nói như thế. Rồi đến Yedo, thủ phủ của Toranaga. Tớ chưa bao giờ tới đó, cũng chưa có một cha cố hay một người Portugal nào - Toranaga giữ chặt thủ phủ của mình - một cấm thành. Tuy nhiên", Rodrigues nói thêm, nằm lại trên giường, mắt nhắm lại, bộ mặt anh giãn ra vì đau,
"Tuy nhiên, dù là chỗ nào cũng chẳng có gì khác nhau. Toàn bộ nước Nhật chính thức cấm đối với chúng ta, trừ cảng Nagasaki và Hirado. Các cha cố của chúng tôi không chú ý nhiều đến luật lệ, chỗ nào họ thích họ đi. Nhưng những thủy thủ chúng ta, hoặc những nhà buôn thì không được, trừ khi có giấy phép đặc biệt của Hội đồng Nhiếp chính hoặc một Daimyo lớn như Toranaga chẳng hạn. Bất cứ một Daimyo nào cũng có thể bắt giữ tàu của chúng ta - như Toragana đã bắt giữ cậu đó - bên ngoài Nagasaki hay Hirado. Đó là luật pháp của họ."
"Cậu có muốn nghỉ bây giờ không?"
"Không, Ingeles ạ. Nói chuyện tốt hơn. Nói chuyện làm bớt đau. Đức Mẹ ơi, đầu tôi đau quá! Tớ không thể nào suy nghĩ được rõ ràng. Chúng ta hãy nói chuyện cho đến khi cậu lên bờ. Cậu quay lại thăm tớ, còn nhiều điều tớ muốn hỏi cậu. Cho tớ chút rượu nữa. Cám ơn, cám ơn Ingeles."
"Tại sao các cậu lại bị cấm không được đến những nơi cậu thích?"
"Cái gì? Ồ ở đây, ở Nhật Bản này à? Do Taiko - ông này bắt đầu mọi sự rắc rối. Kể từ những ngày đầu bọn tớ đến đây năm 1542 để bắt đầu công việc của Chúa và đem văn minh đến cho họ, bọn tớ và các cha cố của chúng tớ có thể đi lại một cách tự do, nhưng khi Taiko nắm được toàn bộ quyền bính, ông ta bắt đầu cấm đoán. Nhiều người tin rằng... cậu có thể chuyển cái chân của tớ một chút, bỏ cái chăn ra khỏi chân tớ, nó đang bốc lửa... ừ, ồ Đức Mẹ ơi, cẩn thận chút - thế, cám ơn Ingeles. Ừ tớ nói đến chỗ nào nhỉ? À, phải rồi, nhiều người tin rằng Taiko là cái buồi của Satan. Mười năm trước, lão ban sắc lệnh chống cha cố, Ingeles ạ, và tất cả những ai muốn truyền lời của Chúa. Lão trục xuất bất cứ ai, trừ những lái buôn, mười, mười hai năm trước. Đó là thời gian trước khi tớ tới vùng biển này - tớ đã đi tới đi lui ở đây bảy năm rồi. Các vị cha cố nói đó là tại các thầy tu ngoại đạo những người theo đạo Phật - những kẻ thờ thần tượng thối tha đầy ghen ghét, bọn chúng làm cho Taiko chống lại các vị cha cố của chúng ta, nói dối nói trá trong khi các cha cố đã gần cải đạo được cho lão. Phải, chính tên sát nhân vĩ đại suýt nữa cũng đã được cứu rỗi linh hồn. Nhưng lão đã lỡ một dịp để cứu chuộc. Phải. Ừ, lão ta ra lệnh cho tất cả các thầy tu của chúng tà phải rời Nhật Bản... Có phải tớ đã nói với cậu đó là hơn mười năm trước rồi không?"
Blackthorne gật đầu, sung sướng để cho người ta nói huyên thuyên, sung sướng nghe, nóng lòng muốn biết.
"Taiko cho tập trung tất cả các cha cố tại Nagasaki, chuẩn bị đưa họ xuống tàu tới Macao với lệnh viết không bao giờ được quay lại, nếu không sẽ bị tử hình. Rồi đột nhiên, lão ta để mặc kệ họ và không làm gì nữa. Tớ đã nói với cậu, bọn Nhật Bản là một lũ lộn tùng phèo. Ừ, lão để mặc họ, và chẳng bao lâu, tình hình lại như cũ, có điều là hầu hết các cha đều ở Kyushu, nơi bọn tớ được đón tiếp. Tớ đã nói với cậu Nhật Bản được tạo thành bởi ba bán đảo lớn Kyushu, ShiKoku và Honshu rồi chứ? Và hàng ngàn đảo nhỏ. Còn một hòn đảo nữa ở tít miền Bắc một số người nói đó là lục địa - gọi đó là Hokkaido, nhưng chỉ những người bản xứ mọc lông mọc lá sống ở đó."
"Nhật Bản là một thế giới lộn ngược, Ingeles ạ. Cha Alvito nói với tớ là tất cả lại như chưa có chuyện gì xảy ra cả. Taiko lại thân thiện như trước, mặc dù ông ta không bao giờ cải đạo. Ông ta hầu như chỉ đóng cửa một nhà thờ và trục xuất hai hoặc ba Daimyo theo Thiên Chúa giáo - nhưng như vậy là cốt chiếm lấy đất của họ - chứ không hề ban lệnh trục xuất. Thế rồi, ba năm trước đây lão lại nổi điên, hành hình hai mươi sáu cha cố. Lão đóng đinh câu rút họ ở Nagasaki. Không vì lý do gì. Lão ta là một thằng thần kinh, Ingeles ạ. Nhưng sau khi tàn sát hai mươi sáu người, lão không làm gì nữa. Chẳng bao lâu sau đó lão chết. Đó là bàn tay Chúa, Ingeles ạ. Lời nguyền của Chúa giáng xuống lão và dòng giống của lão. Tớ chắc chắn như vậy."
"Cậu có được nhiều người cải đạo ở đây không?"
Nhưng hình như Rodrigues không nghe, lạc đi trong suy nghĩ của mình.
"Bọn chúng là súc vật, bọn Nhật Bản ấy. Tớ đã nói với cậu về cha Alvito chưa nhỉ? Cha là một người phiên dịch - Tsukku-san, họ gọi Cha, ông Phiên Dịch. Cha là người phiên dịch của Taiko, Ingeles ạ, bây giờ cha là phiên dịch chính thức của Hội đồng Nhiếp chính và cha nói tiếng Nhật tốt hơn hầu hết người Nhật Bản và biết nhiều về họ hơn bất cứ người nào đương thời. Cha nói với tớ có một mô đất cao năm mươi.
"Feet" ở Miyako - đó là thủ đô, Ingeles ạ. Taiko cắt mũi, cắt tai tất cả những người Triều Tiên bị giết trong chiến tranh gom lại và chôn ở đó - Triều Tiên là một bộ phận của lục địa, miền Tây Kyushu. Đó là sự thật! Thề có Đức Mẹ Đồng Trinh, chưa bao giờ có một tên giết người nào như lão - mà tất cả chúng nó đều tệ như thế cả." Đôi mắt của Rodrigues nhắm lại, trán nóng rực lên.
"Các cậu có nhiều người cải đạo không?" Blackthorne cẩn thận hỏi lại, hết sức muốn biết có bao nhiêu kẻ thù ở đây.
Kiềm chế sự choáng váng của mình, Rodrigues nói:
"Hàng trăm nghìn người, hàng năm lại có nhiều hơn. Từ sau khi Taiko chết, chúng tớ có nhiều hơn bao giờ hết so với trước đây, và những người trước kia đi nhà thờ một cách lén lút thì bây giờ đi đàng hoàng. Hầu hết đảo Kyushu bây giờ là công giáo. Hầu hết Daimyo của đảo Kyushu đã cải đạo.
Nagasaki là một thành phố công giáo, Jesuit làm chủ nó, điều hành và kiểm soát mọi công việc buôn bán. Mọi công việc buôn bán đều đi qua Nagasaki. Chúng tớ có một giáo đường, một chục nhà thờ, một chục nhà thờ khác nữa trải khắp Kyushu, nhưng chỉ có một ít ở đây, ở bán đảo chính này, Honshu và..." Cơn đau lại làm anh ta ngưng lại. Một lát sau, anh ta tiếp tục.
"Chỉ riêng Kyushu có ba hay bốn triệu người - chẳng bao lâu nữa, tất cả sẽ đều là công giáo. Có trên hai mươi triệu người Nhật nữa ở các bán đảo và chẳng bao lâu..."
"Không thể được!" Blackthorne lập tức tự rủa mình vì đã ngăn luồng thông tin đó.
"Tại sao tớ phải nói dối? Mười năm trước đây có cuộc điều tra dân số. Cha Alvito nói Taiko đã ra lệnh đó. Cha hẳn phải biết. Cha ở đó mà. Tại sao tớ phải nói dối?" Mắt Rodrigues sốt hừng hực, miệng anh ta nói liên tục bất tận." Như vậy sẽ nhiều hơn số dân của tất cả Portugal, tất cả Spain, tất cả Pháp, tất cả Nêđơlan, thêm cả England và cậu có thể quẳng cả Đế quốc La Mã thần thánh vào cho cân bằng!"
Chúa Jesus, Blackthorne nghĩ, cả cái England cũng không hơn ba triệu người. Và lại còn bao gồm cả xứ Wales nữa."
"Nếu có nhiều người Nhật đến như vậy, chúng ta biết đương đầu với họ thế nào? Nếu có hai mươi triệu, như vậy có nghĩa là họ có thể dễ dàng đè bẹp một đội quân đông hơn chúng ta có trong toàn dân, nếu họ muốn. Và nếu như tất cả họ đều hung dữ như những tên ta đã thấy - mà tại sao họ lại không như thế - thề có những vết thương của Chúa - họ sẽ là không thể nào địch nổi. Và nếu như họ đã trở thành công giáo một bộ phận, và nếu những người Jesuit đã có nhiều ở đây, số lượng của họ sẽ tăng lên và không có kẻ nào cuồng tín hơn một kẻ cuồng tín cải đạo, vậy thì mình và những người Holland còn có cơ hội gì ở châu Á này nữa?"
"Không có gì hết."
"Nếu cậu nghĩ như vậy là nhiều, Rodrigues nói,
"Thì hãy đợi đến khi cậu sang Trung Quốc. Ở đó toàn người da vàng, tóc đen, mắt đen. Ồ, Ingeles ạ, nói để cậu biết, cậu còn nhiều điều mới lạ để mà học lắm. Năm ngoái, tớ ở Quảng Đông, nơi bán lụa. Quảng Đông là một trường thành ở miền nam Trung Quốc, trên sông Châu Giang, miền Bắc của thành phố chúng ta mang tên Chúa ở Macao.
Chỉ riêng trong trường thành đó cũng đã có một triệu người dị giáo ăn thịt chó - Trung Quốc có dân số đông hơn tổng số phần còn lại của thế giới. Hẳn là như thế. Nghĩ mà coi!" Một cơn đau đến với Rodrigues, bàn tay lành của anh ta ôm lấy bụng.
"Trong người tớ có chỗ nào chảy máu không? Có chỗ nào không?"
"Không. Tớ đã xem kỹ rồi. Chỉ chân và vai cậu thôi. Cậu không bị thương ở bên trong đâu, Rodrigues ạ - ít nhất thì tớ cũng không nghĩ như thế."
"Chân có tệ lắm không?"
"Nó đã được biển gột rửa. Lúc này chỗ gãy sạch và da cũng sạch."
"Cậu có đổ rượu vào chỗ đó và đốt không?"
"Không. Bọn họ không để mình làm - họ ra lệnh cho mình lui ra. Nhưng ông bác sĩ hình như biết công việc của ông ta. Người của cậu có tới đây bây giờ không?"
"Có. Ngay khi chúng ta đưa tàu vào bến. Chắc hẳn là như vậy."
"Tốt. Cậu đang nói gì nhỉ? Về Trung Quốc và Quảng Đông?"
"Có lẽ mình đang nói quá nhiều. Có đủ thì giờ để nói về chúng."
Blackthorne nhìn bàn tay lành của Rodrigues đang nghịch cái gói niêm phong và lại tự hỏi không hiểu nó có ý nghĩa gì.
"Chân cậu sẽ không sao đâu. Trong tuần này cậu sẽ biết thôi."
"Ừ, Ingeles."
"Tớ nghĩ nó không bị thối - không có mủ - cậu suy nghĩ được rõ ràng, mạch lạc, vậy là óc cậu không sao. Cậu sẽ khỏe, Rodrigues."
"Tớ vẫn nợ cậu ơn cứu mạng." Một sự rùng mình chạy lan khắp người anh Portugal.
"Khi bị chìm xuống, tớ chỉ còn nghĩ được là những con cua sẽ bò vào qua mắt tớ. Tớ đã có thể cảm thấy chúng quẫy lộn trong người tớ. Ingeles ạ, đây là lần thứ ba tớ bị hất ra khỏi tàu, lần sau bao giờ cũng lẹ hơn lần trước."
"Tớ bị chìm dưới bể bốn lần. Ba lần bởi bọn Spain."
Cửa cabin mở, thuyền trưởng cúi chào và ra hiệu cho Blackthorne lên.
"Hai!" Blackthorne đứng lên.
"Cậu không nợ mình cái gì hết, Rodrigues", anh nói một cách nhân từ.
"Cậu đã cho tớ cuộc sống và cứu trợ khi tớ tuyệt vọng - và tớ cám ơn cậu vì điều ấy. Chúng ta thế là huề."
"Có lẽ, nhưng hãy nghe này, Ingeles, đây là đôi điều chân thật cho cậu, để đền đáp lại một phần: đừng bao giờ quên rằng người Nhật là sáu mặt và ba trái tim. Họ có một câu châm ngôn: một người có một trái tim giả ở miệng cho tất cả cuộc đời thấy, một trái tim khác ở trong ngực cho những bạn bè đặc biệt và gia đình mình, một trái tim thật, một trái tim chân chính, một trái tim bí mật mà không một người nào biết ngoài chính anh ta, ẩn nấp ở chỗ nào chỉ có Chúa mới biết được. Họ phản phúc không thể tưởng tượng nổi, xấu xa ác độc không thể cứu chuộc."
"Tại sao Toranaga lại muốn gặp tớ?"
"Tớ không biết. Có Đức Mẹ Đồng Trinh! Tớ không biết. Hãy trở lại thăm tớ, nếu có thể được."
"Ừ, chúc may mắn, Spain!"
"Đồ tinh trùng! Dù thế, cầu Chúa phù hộ cho ngươi."
Blackthorne mỉm cười đáp lại, thoải mái, sau đó anh lên boong, đầu óc vẫn còn quay cuồng về Osaka, cái mênh mông của nó, người chen chúc như kiến và cái lâu đài khổng lồ chế ngự thành phố. Từ cái mênh mông trong lâu đài, vút lên vẻ đẹp của tháp pháo đài - pháo đài trung tâm - cao bảy hay tám tầng, những đầu hồi nhọn, mái cong, ngói nạm vàng và tường màu xanh.
Toranaga sẽ ở đó, anh nghĩ, một lưỡi câu đá đột nhiên nhói lên trong bụng anh.
Một chiếc kiệu kín đưa anh tới một ngôi nhà lớn. Ở đấy anh được tắm rửa và ăn, vẫn là canh cá, cá tươi và hấp, vài lát rau muối và nước lá nóng. Thay cho cháo lúa mạch, nhà này cho anh một bát cơm. Anh đã nhìn thấy cơm một lần ở Naplơ. Nó trắng và hoàn hảo, nhưng đối với anh, nó chẳng có vị gì cả. Dạ dày anh cồn cào đòi thịt và bánh mỳ, những chiếc bánh mới nướng giòn tan đẫm bơ, một cái đùi bò, bánh patê, thịt gà, bia và trứng.
Hôm sau một người hầu gái tới. Quần áo Rodrigues cho anh đã được giặt là. Cô ta nhìn anh mặc quần áo và giúp anh đi.
"Tabi" mới. Bên ngoài có một đôi dép da mới. Ủng của anh biến mất. Cô gái lắc đầu, chỉ vào đôi dép rồi chỉ vào chiếc kiệu buông rèm. Một đội Samurai vây quanh. Người đội trưởng ra hiệu cho anh nhanh lên, vào kiệu.
Họ đi ngay lập tức. Rèm buông kín mít. Sau một thời gian bất tận, chiếc kiệu dừng lại.
"Ngươi không được sợ", anh nói to và bước ra.
Cổng đá khổng lồ của lâu đài ở trước mặt anh. Cổng đặt trong một bức tường ba mươi.
"Feet.
"Với những lỗ châu mai liên hoàn, pháo đài và những công sự phụ. Cánh cửa khổng lồ bọc sắt, và khung lưới sắt đúc đã kéo lên. Phía xa là một cầu gỗ rộng hai mươi bước, dài hai trăm bước bắc qua hào và chấm dứt bằng một cái cầu cất khổng lồ và một cổng khác lắp trong tường thứ hai, cũng lớn như thế.
Hàng trăm Samurai ở khắp nơi. Tất cả đều mặc đồng phục màu xám - kimono có thắt lưng, cái nào cũng có năm huy hiệu nhỏ hình tròn, mỗi cánh tay một cái, mỗi bên ngực một cái và một cái ở giữa lưng. Huy hiệu màu xanh hình như là bông hoa của những bông hoa.
"Anjin-san!"
Hiromatsu ngồi cứng người trên một cái kiệu để mở, bốn người khiêng mặc chế phục. Kimono của ông nâu và thẳng cứng, thắt lưng đen, giống như của năm mươi Samurai bao quanh ông. Kimono của họ cũng có năm huy hiệu, nhưng chúng màu đỏ tía, giống như màu huy hiệu bay phần phật ở đầu cột buồm, biểu trưng của Toranaga. Những Samurai này mang giáo dài sáng loáng với những lá cờ nhỏ xíu trên đầu.
Blackthorne cúi chào không suy nghĩ, choáng vì dáng vẻ uy nghi của Hiromatsu. Ông già chào lại một cách hình thức, thanh trường kiếm buông lơi trên lòng, ra hiệu cho anh theo.
Viên sĩ quan ở cổng tiến lên. Một nghi lễ đọc tờ giấy Hiromatsu đưa ra được tiến hành, nhiều người cúi chào và nhìn về phía Blackthorne, rồi họ đi qua, về phía cầu, được hộ tống bởi đội quân y phục màu xám.
Con hào sâu năm mươi.
"Feet", chạy dài khoảng ba trăm bước, rồi men theo những bức tường quay về phương Bắc, và Blackthorne nghĩ, lạy Chúa, mình ghét nếu như phải tấn công vào đây. Những người bảo vệ có thể để cho tường thành phía ngoài đổ sụp và đốt cầu, và như vậy họ sẽ yên ổn ở phía trong. Lạy Đức Chúa, tường phía ngoài phải dày đến hai, ba mươi.
"Feet" - tường phía trong cũng thế. Và nó được làm bằng những phiến đá khổng lồ. Mỗi phiến phải dày đến mười.
"Feet." Ít nhất là như thế. Xếp gọn gàng lớp lớp, không cần phải vữa. Chúng phải nặng ít nhất là năm mươi tấn. Tốt hơn bất cứ loại tường thành nào chúng ta có thể làm. Súng công thành? Tất nhiên chúng có thể đập vỡ tường phía ngoài nhưng súng bảo vệ cũng sẽ phản công lại mạnh mẽ như vậy. Cũng khó đưa nổi tới đây, và không có một điểm nào cao hơn để câu pháo vào lâu đài. Nếu như tường ngoài bị hạ, những người bảo vệ nó vẫn có thể đánh bật kẻ tấn công khỏi pháo đài. Nhưng cho dù súng công thành có thể chuyển được tới đó và quay nòng về phía tường tiếp theo để công phá, thì cũng chẳng ăn thua gì. Họ có thể phá hỏng được cánh cổng ở xa, nhưng như vậy thì làm nên trò trống gì? Làm sao vượt qua được hào? Nó quá rộng, không dùng những phương pháp bình thường được. Lâu đài không gì có thể lay chuyển nổi. Có bao nhiêu binh lính ở trong này? Bao nhiêu thị dân trú ngụ ở bên trong?
Nó làm cho Tháp London giống như một cái chuồng lợn. Và cả Hamtơn Cooc chỉ vừa một góc nhỏ.
Ở cổng tiếp theo lại có thủ tục kiểm tra giấy tờ long trọng khác, con đường rẽ qua tay trái, xuôi xuống một đại lộ rộng mênh mông, hai bên là những ngôi nhà kiếu cổ đằng sau những bức tường lớn nhỏ dễ bảo vệ, dẫn vào một mê lộ của những bậc thang và những con đường. Rồi lại một cổng khác và kiểm tra giấy tờ nữa, một khung lưới sắt và một hào nữa rộng mênh mông, nhiều lối rẽ ngang rẽ dọc, cho đến tận khi Blackthorne, một người quan sát rất nhậy, với một trí nhớ và một đầu óc biết định hướng phi thường, đã phải rối trí trong cái mê trận cố ý này. Và trong suốt thời gian đó, không biết bao nhiêu là quân Xám từ những dốc đứng, từ những thành lũy, những pháo đài, công sự nhìn xuống họ. Và còn nhiều hơn nữa đi lại, canh phòng, luyện tập, chăn ngựa ở những chuồng để mở. Binh lính ở khắp mọi nơi, đông có đến hàng ngàn. Tất cả đều được vũ trang tốt và mặc quần áo cẩn thận.
Anh tự rủa mình không khôn khéo để thu lượm nhiều tin tức hơn của Rodrigues. Ngoài những tin tức về Taiko và những người cải đạo cũng đã đủ làm anh choáng váng, còn thì Rodrigues ngậm miệng như một người đàn ông, như địa vị anh, tránh những câu hỏi.
Hãy tập trung vào tìm ra manh mối. Có gì đặc biệt về tòa lâu đài này? Một tòa lâu đài lớn nhất. Không, có một cái gì khác. Cái gì?
Có phải quân Xám cừu thù với quân Nâu không? Mình không thể biết được. Người nào cũng quá trang nghiêm.
Blackthorne quan sát họ cẩn thận và tập trung vào những chi tiết. Phía bên trái là một khu vườn nhiều màu được chăm sóc cẩn thận với những chiếc cầu nhỏ và một dòng suối con. Những bức tường bây giờ ở sát gần nhau hơn và những con đường hẹp hơn. Họ đã tới gần tháp canh. Trong này không có thị dân, chỉ có hàng trăm đầy tớ và không có đại bác! Đó là chỗ khác nhau!
Mình không nhìn thấy một khẩu đại bác nào. Không một khẩu nào.
Lạy Chúa trên trời, không có đại bác - vì vậy không cố súng công thành!
Nếu có vũ khí hiện đại và không có người bảo vệ, anh có thể phá đổ những bức tường, những cánh cửa, nã đạn lửa vào lâu đài, đốt nó và chiếm lấy không?
Anh không thể vượt qua hào thứ nhất.
Với súng thần công, anh có thể gây khó khăn cho những người bảo vệ, nhưng họ có thể cầm cự được mãi, nếu như đơn vị đồn trú quyết tâm, nếu có đủ quân, đủ lương thực, nước và đạn được.
Làm sao để vượt qua hào? Bằng thuyền ư? Bằng bè mảng có tháp ư?
Trí óc anh cố gắng nghĩ ra một kế hoạch khi chiếc kiệu dừng. Hiromatsu xuống. Họ ở trong một ngõ cụt hẹp. Một cánh cửa gỗ bịt thép khổng lồ dẫn tới một bức tường cao hai mươi.
"Feet" hòa vào những công sự phụ của điểm bảo vệ phía trên, còn cách tháp canh xa, từ chỗ này nhìn vào trông nó tối. Không giống tất cả các lối vào khác, chỗ này do quân Nâu gác. Blackthorne thấy quân Nâu chỉ có bên trong lâu đài. Rõ ràng là họ rất mừng khi thấy Hiromatsu.
Quân Xám quay lại và bỏ đi. Blackthorne để ý thấy những cái nhìn thù địch của quân Nâu đối với họ. Như vậy họ là kẻ thù của nhau!
Cánh cửa mở tung, anh theo ông tướng già vào trong. Một mình. Các Samurai khác ở bên ngoài.
Sân bên trong có nhiều quân Nâu hơn, đang gác cả khu vườn đằng xa nữa. Họ đi qua vườn, vào trong pháo đài, Hiromatsu đá đôi dép ra, Blackthorne cũng làm như thế. Hành lang bên trong được trải chiếu hoa lộng lẫy, loại chiếu cói, sạch và mát chân, trải sàn mọi nhà trừ những nhà nghèo nhất. Từ trước Blackthorne đã để ý, tất cả đều cùng một kích thước, khoảng sáu.
"Feet" và ba.
"Feet." Lạ thật, anh tự nhủ, chưa bao giờ mình thấy những cái chiếu hình thù và kích thước như vậy. Và cũng chưa bao giờ thấy một căn phòng đều vuông hoặc chữ nhật? Tất nhiên! Điều đó có nghĩa là tất cả các ngôi nhà - hoặc phòng - phải được cấu tạo để trải một lượng chiếu nhất định nào đó. Tất cả đều là chuẩn mực. Lạ thay!
Họ trèo lên những bậc thang vòng vèo, đi dọc theo một số hành lang và cầu thang nữa. Có rất nhiều lính gác, luôn luôn là quân Nâu. Những vệt nắng từ lỗ châu mai hắt ra những mẫu hình phức tạp. Blackthorne có thể nhìn thấy, bây giờ họ đã ở trên cao ba bức tường cuốn. Thành phố và bến cảng như một tấm mền hoa phía dưới.
Hành lang rẽ ngoặt đột ngột và kết thúc cách đó năm mươi bước.
Blackthorne như có mật đắng trong miệng. Đừng lo, anh tự nhủ, mình đã quyết định phải làm gì. Mình đã liên quan rồi.
Các Samurai đứng tập trung, viên sĩ quan trẻ của họ đứng phía trước, bảo vệ cửa cuối cùng - người nào cũng tay phải nắm đốc kiếm, tay trái giữ bao kiếm bất động và sẵn sàng, mắt chằm chằm nhìn hai người đang tiến lại.
Hiromatsu thấy vững dạ vì sự sẵn sàng của họ. Ông đã đích thân chọn những người gác này. Ông ghét tòa lâu đài này, ông lại nghĩ, thật nguy hiểm biết bao khi để Toranaga ở trong quyền lực của kẻ thù. Ông đã định chạy băng đến Toranaga để kể cho Người nghe những điều đã xảy ra và để xem xem có chuyện gì không hay xảy ra trong khi ông vắng mặt hay không. Nhưng mọi sự vẫn yên ắng, mặc dù do thám của họ báo cáo là kẻ thù đã tăng cường lực lượng quân sự ở phía Bắc và phía Đông và những đồng minh chính của họ, những Nhiếp chính, Onoshi và Kiyama - những Daimyo lớn nhất theo Thiên Chúa giáo, đã theo về với Ishido. Ông đã đổi lính gác, khẩu lệnh và lại xin Toranaga nên rời đi nhưng không có kết quả gì.
Cách viên sĩ quan mười bước, Blackthorne dừng lại.
Bạn cần đăng nhập để bình luận