Bách Yêu Phổ
Chương 118: Hàm Thử(4)
Chương 5. 4
Nhà sư của chùa Minh Kính nói ông khá may mắn, người say xỉn bị ngã bên ngoài giữa trời rét buốt rất nguy hiểm, may mà nửa đêm có người gõ cửa, ông đi ra mới thấy có người say.
Ông rối rít cảm ơn vị nhà sư, còn định vét hết mấy đồng lại để quyên góp cho chùa nhưng nhà sư không nhận, nói hiện giờ thí chủ còn cần số tiền này hơn Phật Tổ.
Ông cười ngượng ngùng, bộ đồ thô sơ trên người đã trở nên rách bươm sau trận đòn, cộng thêm khóe miệng và mắt sưng vù. Bây giờ trông ông chẳng khác ăn may là bao.
"Người ta hiểu lầm tôi là kẻ bắt cóc nên mới đánh tôi một trận." Ông không biết vì sao mình lại giải thích, mấy người kia không tin, chẳng rõ Phật Tổ có tin không,"Tôi không phải thật đó... Tôi..."
"A di đà Phật, thí chủ không cần giải thích." Nhà sư cười xua tay,"Chuyện đã làm sẽ không vì giải thích mà thay đổi, Phật Tổ nhìn thấy hết đó."
Ông ngẩn người rồi cười, chắp tay trước ngực, nói: "Tôi hiểu rồi, không nói nữa."
Trước khi đi, ông nghe thấy mùi bánh bao bay ra từ phía nhà bếp, đỏ mặt che cái bụng kêu ọt ọt lại, hỏi xin hai cái bánh bao.
Nhà sư bảo chú tiểu dẫn ông đến nhà bếp ăn cơm trưa.
Lúc đi, ông lặng lẽ vét hết tiền để lại trên tấm thớt trong nhà bếp, không biết nhiêu đó có đủ trả cho bữa trưa hay không.
Ra khỏi chùa Minh Kính, ông bỗng hỏi nhà sư: "Tối qua ai gõ cửa vậy?"
Nhà sư lắc đầu: "Lúc mở cửa ra thì không thấy ai cả, nhìn về xa xa thấy có bóng người nhưng trời tối quá nên không nhìn thấy rõ. Có lẽ là người qua đường tốt bụng."
"Bóng người đó đi về phía cây cầu sao?" Ông chỉ về phía trái,"Có ai sống ở không?"
"Không có ai sống ở đó cả, chỉ có một căn nhà hoang không biết đã mấy trăm tuổi rồi. Thí chủ đi vào thành Lạc Dương thì hơn, đông người nhộn nhịp sẽ tốt hơn." Nhà sư không dằn lòng được mà nói thêm, sắc mặt rất kỳ lạ,"Đừng đi về phía đó."
"Vì sao?" Ông thắc mắc.
Chú tiểu đáp nhỏ: "Căn nhà đó bị bỏ hoang lâu quá rồi, xung quanh lại không có hơi người, tới đó e chỉ gặp thứ không sạch sẽ."
"Lại nghe lung tung ở đâu đó." Nhà sư gõ đầu chú tiểu,"Tâm chính thì sợ gì gặp tà vật."
Chú tiểu xoa đầu, tủi thân nói: "Ngô thí chủ bán gạo trên chợ nói vậy mà."
"Ha ha, đa tạ tiểu sư phụ đã nhắc nhở." Ông cười với chú tiểu,"Tôi tới đó xem thử rồi vào thành Lạc Dương sau." Nói xong, ông lại quỳ xuống lạy nhà sư: "Tôi xin khắc ghi ơn cứu mạng này."
Hai con đường đằng sau, một đường hướng về chốn phồn hoa, một đường rẽ về nơi hiu quạnh, không biết vì cớ làm sao mà giờ phút này ông chỉ một lòng một dạ muốn đi lên con đường vắng vẻ.
Đúng như lời chú tiểu nói, suốt đoạn đường không có một bóng người, dãy núi xa xa không trông rõ màu sắc, chỉ thấy màu xám nhàn nhạt của những đám mây đang bao phủ, con sông nhỏ kết một tầng băng mỏng, hai bên bờ cỏ nhuốm vàng mọc uể oải xen giữa những mỏm đá lởm chởm. Hôm nay là mồng một Tết nhưng nơi này chẳng có lấy không khí vui mừng.
Ông đã đi qua rất nhiều nơi có cảnh tượng giống nơi đây, chỉ có núi sông không thấy người đâu, có vui ắt có buồn, mấy chục năm không yên ổn, giang sơn sao nở nổi nụ cười.
Điều duy nhất khiến người ta thấy rung động là trong không khí có mùi thơm, ban đầu chỉ thoang thoảng nhưng càng đi mùi thơm càng nồng. Ông vừa đi vừa hếch mũi ngửi, cuối cùng tìm được nguồn gốc ở trước bờ tường trơ trọi. Ở bên kia bờ tường có người đang nấu gì đó, một chiếc nồi nhỏ được đặt trên bếp lửa đỏ, nước trong nồi sôi sùng sục bốc hơi nóng nghi ngút, rau dưa thịt thà thay nhau chìm nổi. Một bàn tay trắng muốt cầm đôi đũa thong dong gắp thức ăn ra cái chén đang nằm trên bàn tay còn lại.
Ông chỉ nhìn thấy được có thế bởi vì cái lỗ trên tường chỉ to có thế, mèo chó đi qua được chứ người thì không.
Bên kia bờ tường hẳn là một vị công tử mặc áo trắng mang giày đen, ông đứng bên này chỉ thấy được nửa người của công tử ấy.
Nghĩ cũng lạ, ai lại chạy đến nơi khỉ ho cò gáy này để nấu ăn vào mồng Một Tết chứ? Lẽ nào đúng như chú tiểu nói... Nhưng ban ngày ban mặt lại còn là giữa trưa, mấy thứ không sạch sẽ chắc sẽ không chọn giờ này để xuất hiện chứ?
"Ăn không?" Người bên kia bờ tường bỗng nói, lại như đang lầm bầm,"Chậc, lỡ nấu nhiều quá."
Ông ngỡ ngàng, người bên đó đang nói chuyện với ông ư?
"Hỏi ông đó, có muốn ăn không?" Người bên kia tựa như trông thấy biểu cảm kinh ngạc của ông, thản nhiên nói,"Ta không phải yêu quái hại người, trong nồi cũng không có độc, lại lỡ tay nấu nhiều, coi như cho ông."
Ông mỉm cười, sau thoáng suy nghĩ, bèn ngồi xuống, thi lễ rồi đáp: "Tại hạ chỉ đi ngang qua, vì ngửi thấy mùi thơm nên đi theo đến đây, được công tử mời cùng dùng bữa làm tại hạ ngạc nhiên quá đỗi, chỉ sợ quấy rầy nhã hứng của công tử."
"Từng đi học à? Nói năng lễ độ đấy." Người bên kia bờ tường đưa tới một chén rượu,"Mới vừa hâm bầu rượu, uống chút không?"
Ông do dự chốc lát rồi cũng nhận lấy nhấp một ngụm, ngọt quá, vị dịu hơn rượu hôm qua nhiều.
Một chén xúp lại được đưa tới: "Tuy ngon nhưng ăn từ từ thôi, kẻo bỏng."
Thơm quá. Ông vội nhận lấy, thổi vài cái rồi gắp thức ăn bỏ vào miệng. Không biết vị công tử này dùng gia vị thần tiên gì mà củ sen và khoai sọ lại ngon hơn bình thường gấp trăm lần, cá được thái mỏng như trang giấy nhưng không bị bấy, như được tan trong miệng, quả là mỹ vị hiếm có.
"Tài nấu nướng của công tử đỉnh quá!" Ôn húp cạn giọt nước xúp cuối cùng trong chén, bật ngón tay cái lên,"Nhưng không biết vì sao công tử..."
"Tết nhất, trong nhà có nhiều bà con họ hàng quá, ăn mỗi bữa cơm cũng ồn ào nên ta đành trốn ra ngoài." Công tử cầm cái vá gỗ chầm chậm khuấy nồi,"Ăn cơm thì chỉ nên ăn thôi, xã giao trên bàn cơm chỉ tổ làm mất ngon."
Nghe giọng nói có vẻ như vị công tử này còn trẻ tuổi, lời nói tuy đơn giản nhưng lại nhìn thấu sự đời, khiến người nghe thấy dễ chịu trong lòng.
"Cũng phải." Ông bưng chén rượu nhấp thêm một ngụm, cười nói,"Hồi còn nhỏ, cứ tới lễ tết, nhà tôi cũng đông khách lắm. Lần nào tôi cũng đọc đi đọc lại thi từ vô số lần để trợ hứng cho bà con họ hàng, đổi lấy một tràng ngợi khen. Tiếc là tôi không có bản lĩnh như công tử, bằng không tôi cũng sẽ tìm chỗ không người để đun bếp nấu cơm hâm rượu."
"Đưa chén đây, múc thêm cho ăn." Công tử giơ tay ra.
Ông vội đưa chén qua. Sự câu nệ dần biến mất sau khi được nếm vị ngon, hiện giờ trong đầu chỉ nghĩ đến thức ăn trong nồi cùng vị dịu của rượu.
Không biết lai lịch, thậm chí còn chẳng biết ngoại hình của nhau, cách nhau một bức tường lại như chẳng hề có sự ngăn trở nào. Giữa trời giá buốt vào mồng Một Tết, họ ăn cơm uống rượu cùng nhau, tô cho mảnh đất hoang vu này thêm sắc màu của sự náo nhiệt và sức sống.
Có lẽ vị công tử kia lỡ nấu nhiều thật, họ ăn hoài mà không hết. Rượu cũng nhiều, ông đã uống cạn ba bình lúc nào không hay. Loại rượu mà ông uống đêm qua rất dở, vị đắng ngắt, nuốt xuống bụng khiến ruột gan như bị thiêu đốt, còn loại rượu hôm nay sao mà dịu quá đỗi, cũng không gây khó chịu khi say.
Lời đối đáp qua lại giữa hai bên bờ tường ngày càng nhiều, từ thi từ đến thiên hạ, từ chiến loạn đến những chuyện lông gà vỏ tỏi. Ông kể hết sạch, về mình khi còn là thần đồng cho đến lúc trở thành lão Khúc, về Thúy Nhi, về cậu thương binh. Ông kể hết cho bằng sạch những chuyện không thể nào quên trong đời mà ông hiếm khi nhắc đến cùng ai. Ông kể tờ giấy nợ mà ông viết khi hái trộm trái cây năm xưa cũng không phải viết chơi, mấy năm trước ông có đi ngang qua thôn đó và đã tới nhà trả tiền thật. Chủ nhà rất bất ngờ, nói thường xuyên có người hái trộm trái cây nhà họ, mà hái trộm cũng không sao, thời thế loạn lạc, ai cũng khổ. Lúc ông đi, chủ nhà còn tặng cho ông túi đào mới hái, rất ngọt, đến giờ ông vẫn còn nhớ hương vị của nó. Ông còn kể chuyện hôm qua bị đánh, cảm thấy rất ấm ức, nhưng nhà sư nói đúng, người khác tin hay không thì ông cũng không phải bọn buôn người, quan trọng là đứa bé không bị chết oan, vậy đã tốt lắm rồi, chỉ cần nghĩ vậy thì ông không còn thấy ấm ức hay tức tối nữa.
"Tôi không phải ăn mày, cũng không phải bọn buôn người, tôi là tôi, tôi là Khúc Phục Lai!" Ông say mèm chỉ vào gương mặt đỏ bừng còn hơn thoa phấn,"Phục Lai trong Thiên kim tán tận hoàn phục lai(1)." Ông vừa nói vừa trượt xuống bức tường, ánh mắt lờ đờ nhìn bầu trời bao la xám xịt,"Nhưng mà... Cha tôi không còn nữa... Thúy Nhi không còn nữa... Cậu thương binh cũng không còn nữa... Tôi vốn rất trẻ, mà thoắt cái đã bạc đầu... Tuổi trẻ cũng không còn nữa... Bôn ba nửa đời người, trừ bộ quần áo cũ mèm rách rưới, tôi không có gì cả, đời tôi chả giống chút gì với cuộc sống mà tôi hằng mong ước."
(1) "Thiên kim tán tận hoàn phục lai" nằm trong bài thơ Thương Tiến Tửu của nhà thơ Lý Bạch, nghĩa toàn câu là "Nghìn vàng tiêu hết rồi lại đến" (bản dịch của Hoàng Tạo, Nam Trân). Phục lai có nghĩa là (cái gì mất rồi, hết rồi) sẽ lại có nữa.
"Uống nữa không?" Người bên kia bờ tường giơ ra một bầu rượu.
"Uống chứ! Rượu cùng tri kỷ ngàn ly thiếu! Sao lại không uống!" Ông nhận lấy bầu rượu rồi uống ừng ực, sau đó cố rướn người nhìn qua cái lỗ trên bức tường,"Công tử, hay tôi qua đó nhé? Công tử có muốn cụng chén không?"
"Thôi đừng." Công tử quả quyết từ chối,"Dung mạo ta xấu xí, không muốn gặp người khác. Nếu ông qua đây, ta sẽ đi ngay."
Ông cười to: "Đàn ông đàn ang sợ xấu cái gì. Cậu còn trẻ mà đã có tầm nhìn và phong thái như thế này thì xấu mấy cũng thành đẹp. Nhưng cậu không muốn tôi qua đó thì thôi, ăn cơm uống rượu chứ không phải là thưởng hoa ngắm trăng, có nhìn thấy nhau hay không cũng chẳng hề hấn gì."
Rượu và thức ăn vơi được một nửa, cả hai đều ợ một cái rõ to.
"Ông muốn sống cuộc đời như thế nào?" Công tử bỗng hỏi.
Ông ợ một hơi, cười khà khà, vừa đưa tay chỉ quanh vừa nói: "Tôi có mười thửa ruộng vàng/ Nép mình bên phía sườn nam núi này. Thanh... thanh tùng... thanh tùng..."
"Thanh tùng mọc bốn năm cây/ Đậu kia ba luống cho đầy đất xanh. Nóng thời mình tắm ao trong/ Lạnh thời ta đứng hát vang trên bờ(2)." Công tử tiếp lời ông, giúp ông không phải lắp bắp thêm nữa.
(2) Trích từ bài thơ "Tôi có mười thửa ruộng" của Vương Phạm Chí.
"Đúng rồi, đúng rồi, không lệch chữ nào!" Ông vỗ tay khoái chí,"Cuộc sống tốt đẹp là như thế đấy. Tôi ấy à..." Ông thả tay xuống, nặng nề ngồi dựa vào vách tường,"Tôi phải đợi thêm chút nữa, hẳn là sắp rồi."
Những bông tuyết lưa thưa sẽ sàng rơi xuống trong cơn gió lạnh buốt, còn chưa kịp chạm đất đã vội tan biến, thôi thì cũng coi như điềm lành báo hiệu cho một năm được mùa vậy.
"Vậy chờ thêm chút nữa." Bên kia bờ tường vang lên tiếng vải sột soạt, dường như vị công tử đã đứng lên,"Hôm nay là mùng Một Tết, không ngờ lại được ăn bữa cơm với người hợp ý, ta thấy rất vui. Chúc mừng năm mới, phát tài phát lộc nhé."
Ông ngẩn người, chợt bật cười: "Đã mấy mươi năm chưa nghe ai chúc Tết tôi hết. Cậu xem kìa, tôi ăn cơm của cậu mà cũng chẳng có gì trả nghĩa." Ông lục tung bộ quần áo cũ kỹ trên người mình, sau đó lấy ra một chiếc khóa đồng gỉ sét và méo mó: "Đây là ổ khóa cổng của nhà tôi, vốn nó bị hư, sau đó tôi đã sửa lại, năm ấy tôi mười một tuổi. Trước lúc lâm chung, cha tôi dặn phải biết chăm sóc bản thân, tôi nói với cha đến cả ổ khóa cổng nhà mình tôi còn sửa được thì sao lại không chăm sóc được bản thân chứ. Bao năm qua, tôi không trộm cướp, không ăn xin, tuy sống vất vả nhưng ít nhất là không chết, sau này có xuống suối vàng gặp ông già thì tôi cũng có thể thẳng lưng nhìn ông ấy. Hôm nay chúng ta có duyên gặp gỡ, tôi muốn tặng ổ khóa cho cậu coi như quà kỷ niệm, tuy không đáng tiền nhưng biết đâu lại là vật may mắn, ha ha."
Một bàn tay nhận lấy ổ khóa, dường như vị công tử ấy còn cười khẽ.
"Vậy ta xin nhận."
"Công tử phải về à?" Ông hỏi.
"Cơm nước no nê, đến lúc phải về rồi." Bên kia bờ tường vang lên tiếng thu dọn đồ đạc.
"Chẳng hay đại danh quý tính công tử là gì? Hôm nào chúng ta lại cùng ăn với nhau bữa cơm nhé?"
"Nào dám quý tính gì đâu... Ta họ Tiển. Còn hôm nào ấy à... E là phải hai mươi năm nữa. Nếu hai mươi năm sau ông vẫn còn nhớ bữa cơm hôm nay thì hãy tới đây gặp nhau."
"Hai mươi năm?" Ông muốn hỏi vì sao phải lâu đến vậy nhưng sau cùng vẫn không hỏi, chỉ cười, nói: "Hai mươi năm sau tôi sẽ ở đây."
"Ừm. Cáo từ."
"Cáo từ."
Bên kia bờ tường, tiếng bước chân nhỏ dần rồi biến mất hẳn, căn nhà hoang lại im ắng như thường ngày, nhưng có lẽ vì bếp lửa nấu cơm vẫn còn hơi khói còn sót lại nên nơi đây không còn cảm giác xơ xác và tịch liêu như trước nữa.
Cơ thể rất ấm, hôm nay là ngày dễ chịu nhất trong suốt mười mấy mùa đông qua, đẹp tựa một giấc mơ.
Ông ngồi thêm lát nữa, mãi đến khi tuyết rơi càng lúc càng dày, ông mới đứng dậy rời đi.
Cứ đi vài bước ông lại ngoái đầu một lần, hẳn là còn hơi say vì ông có cảm giác như trên đường không chỉ có mỗi mình mình. Ông lắc mạnh đầu, nghĩ mình đã tự lo cho bản thân lâu nhường này rồi, thêm hai mươi năm nữa thì có làm sao. Ông ngẩng đầu, tuyết đậu lên hàng lông mày của ông.
Tết nhất, không nên khóc, hãy cười lên.
Hết chương 5. 4
Nhà sư của chùa Minh Kính nói ông khá may mắn, người say xỉn bị ngã bên ngoài giữa trời rét buốt rất nguy hiểm, may mà nửa đêm có người gõ cửa, ông đi ra mới thấy có người say.
Ông rối rít cảm ơn vị nhà sư, còn định vét hết mấy đồng lại để quyên góp cho chùa nhưng nhà sư không nhận, nói hiện giờ thí chủ còn cần số tiền này hơn Phật Tổ.
Ông cười ngượng ngùng, bộ đồ thô sơ trên người đã trở nên rách bươm sau trận đòn, cộng thêm khóe miệng và mắt sưng vù. Bây giờ trông ông chẳng khác ăn may là bao.
"Người ta hiểu lầm tôi là kẻ bắt cóc nên mới đánh tôi một trận." Ông không biết vì sao mình lại giải thích, mấy người kia không tin, chẳng rõ Phật Tổ có tin không,"Tôi không phải thật đó... Tôi..."
"A di đà Phật, thí chủ không cần giải thích." Nhà sư cười xua tay,"Chuyện đã làm sẽ không vì giải thích mà thay đổi, Phật Tổ nhìn thấy hết đó."
Ông ngẩn người rồi cười, chắp tay trước ngực, nói: "Tôi hiểu rồi, không nói nữa."
Trước khi đi, ông nghe thấy mùi bánh bao bay ra từ phía nhà bếp, đỏ mặt che cái bụng kêu ọt ọt lại, hỏi xin hai cái bánh bao.
Nhà sư bảo chú tiểu dẫn ông đến nhà bếp ăn cơm trưa.
Lúc đi, ông lặng lẽ vét hết tiền để lại trên tấm thớt trong nhà bếp, không biết nhiêu đó có đủ trả cho bữa trưa hay không.
Ra khỏi chùa Minh Kính, ông bỗng hỏi nhà sư: "Tối qua ai gõ cửa vậy?"
Nhà sư lắc đầu: "Lúc mở cửa ra thì không thấy ai cả, nhìn về xa xa thấy có bóng người nhưng trời tối quá nên không nhìn thấy rõ. Có lẽ là người qua đường tốt bụng."
"Bóng người đó đi về phía cây cầu sao?" Ông chỉ về phía trái,"Có ai sống ở không?"
"Không có ai sống ở đó cả, chỉ có một căn nhà hoang không biết đã mấy trăm tuổi rồi. Thí chủ đi vào thành Lạc Dương thì hơn, đông người nhộn nhịp sẽ tốt hơn." Nhà sư không dằn lòng được mà nói thêm, sắc mặt rất kỳ lạ,"Đừng đi về phía đó."
"Vì sao?" Ông thắc mắc.
Chú tiểu đáp nhỏ: "Căn nhà đó bị bỏ hoang lâu quá rồi, xung quanh lại không có hơi người, tới đó e chỉ gặp thứ không sạch sẽ."
"Lại nghe lung tung ở đâu đó." Nhà sư gõ đầu chú tiểu,"Tâm chính thì sợ gì gặp tà vật."
Chú tiểu xoa đầu, tủi thân nói: "Ngô thí chủ bán gạo trên chợ nói vậy mà."
"Ha ha, đa tạ tiểu sư phụ đã nhắc nhở." Ông cười với chú tiểu,"Tôi tới đó xem thử rồi vào thành Lạc Dương sau." Nói xong, ông lại quỳ xuống lạy nhà sư: "Tôi xin khắc ghi ơn cứu mạng này."
Hai con đường đằng sau, một đường hướng về chốn phồn hoa, một đường rẽ về nơi hiu quạnh, không biết vì cớ làm sao mà giờ phút này ông chỉ một lòng một dạ muốn đi lên con đường vắng vẻ.
Đúng như lời chú tiểu nói, suốt đoạn đường không có một bóng người, dãy núi xa xa không trông rõ màu sắc, chỉ thấy màu xám nhàn nhạt của những đám mây đang bao phủ, con sông nhỏ kết một tầng băng mỏng, hai bên bờ cỏ nhuốm vàng mọc uể oải xen giữa những mỏm đá lởm chởm. Hôm nay là mồng một Tết nhưng nơi này chẳng có lấy không khí vui mừng.
Ông đã đi qua rất nhiều nơi có cảnh tượng giống nơi đây, chỉ có núi sông không thấy người đâu, có vui ắt có buồn, mấy chục năm không yên ổn, giang sơn sao nở nổi nụ cười.
Điều duy nhất khiến người ta thấy rung động là trong không khí có mùi thơm, ban đầu chỉ thoang thoảng nhưng càng đi mùi thơm càng nồng. Ông vừa đi vừa hếch mũi ngửi, cuối cùng tìm được nguồn gốc ở trước bờ tường trơ trọi. Ở bên kia bờ tường có người đang nấu gì đó, một chiếc nồi nhỏ được đặt trên bếp lửa đỏ, nước trong nồi sôi sùng sục bốc hơi nóng nghi ngút, rau dưa thịt thà thay nhau chìm nổi. Một bàn tay trắng muốt cầm đôi đũa thong dong gắp thức ăn ra cái chén đang nằm trên bàn tay còn lại.
Ông chỉ nhìn thấy được có thế bởi vì cái lỗ trên tường chỉ to có thế, mèo chó đi qua được chứ người thì không.
Bên kia bờ tường hẳn là một vị công tử mặc áo trắng mang giày đen, ông đứng bên này chỉ thấy được nửa người của công tử ấy.
Nghĩ cũng lạ, ai lại chạy đến nơi khỉ ho cò gáy này để nấu ăn vào mồng Một Tết chứ? Lẽ nào đúng như chú tiểu nói... Nhưng ban ngày ban mặt lại còn là giữa trưa, mấy thứ không sạch sẽ chắc sẽ không chọn giờ này để xuất hiện chứ?
"Ăn không?" Người bên kia bờ tường bỗng nói, lại như đang lầm bầm,"Chậc, lỡ nấu nhiều quá."
Ông ngỡ ngàng, người bên đó đang nói chuyện với ông ư?
"Hỏi ông đó, có muốn ăn không?" Người bên kia tựa như trông thấy biểu cảm kinh ngạc của ông, thản nhiên nói,"Ta không phải yêu quái hại người, trong nồi cũng không có độc, lại lỡ tay nấu nhiều, coi như cho ông."
Ông mỉm cười, sau thoáng suy nghĩ, bèn ngồi xuống, thi lễ rồi đáp: "Tại hạ chỉ đi ngang qua, vì ngửi thấy mùi thơm nên đi theo đến đây, được công tử mời cùng dùng bữa làm tại hạ ngạc nhiên quá đỗi, chỉ sợ quấy rầy nhã hứng của công tử."
"Từng đi học à? Nói năng lễ độ đấy." Người bên kia bờ tường đưa tới một chén rượu,"Mới vừa hâm bầu rượu, uống chút không?"
Ông do dự chốc lát rồi cũng nhận lấy nhấp một ngụm, ngọt quá, vị dịu hơn rượu hôm qua nhiều.
Một chén xúp lại được đưa tới: "Tuy ngon nhưng ăn từ từ thôi, kẻo bỏng."
Thơm quá. Ông vội nhận lấy, thổi vài cái rồi gắp thức ăn bỏ vào miệng. Không biết vị công tử này dùng gia vị thần tiên gì mà củ sen và khoai sọ lại ngon hơn bình thường gấp trăm lần, cá được thái mỏng như trang giấy nhưng không bị bấy, như được tan trong miệng, quả là mỹ vị hiếm có.
"Tài nấu nướng của công tử đỉnh quá!" Ôn húp cạn giọt nước xúp cuối cùng trong chén, bật ngón tay cái lên,"Nhưng không biết vì sao công tử..."
"Tết nhất, trong nhà có nhiều bà con họ hàng quá, ăn mỗi bữa cơm cũng ồn ào nên ta đành trốn ra ngoài." Công tử cầm cái vá gỗ chầm chậm khuấy nồi,"Ăn cơm thì chỉ nên ăn thôi, xã giao trên bàn cơm chỉ tổ làm mất ngon."
Nghe giọng nói có vẻ như vị công tử này còn trẻ tuổi, lời nói tuy đơn giản nhưng lại nhìn thấu sự đời, khiến người nghe thấy dễ chịu trong lòng.
"Cũng phải." Ông bưng chén rượu nhấp thêm một ngụm, cười nói,"Hồi còn nhỏ, cứ tới lễ tết, nhà tôi cũng đông khách lắm. Lần nào tôi cũng đọc đi đọc lại thi từ vô số lần để trợ hứng cho bà con họ hàng, đổi lấy một tràng ngợi khen. Tiếc là tôi không có bản lĩnh như công tử, bằng không tôi cũng sẽ tìm chỗ không người để đun bếp nấu cơm hâm rượu."
"Đưa chén đây, múc thêm cho ăn." Công tử giơ tay ra.
Ông vội đưa chén qua. Sự câu nệ dần biến mất sau khi được nếm vị ngon, hiện giờ trong đầu chỉ nghĩ đến thức ăn trong nồi cùng vị dịu của rượu.
Không biết lai lịch, thậm chí còn chẳng biết ngoại hình của nhau, cách nhau một bức tường lại như chẳng hề có sự ngăn trở nào. Giữa trời giá buốt vào mồng Một Tết, họ ăn cơm uống rượu cùng nhau, tô cho mảnh đất hoang vu này thêm sắc màu của sự náo nhiệt và sức sống.
Có lẽ vị công tử kia lỡ nấu nhiều thật, họ ăn hoài mà không hết. Rượu cũng nhiều, ông đã uống cạn ba bình lúc nào không hay. Loại rượu mà ông uống đêm qua rất dở, vị đắng ngắt, nuốt xuống bụng khiến ruột gan như bị thiêu đốt, còn loại rượu hôm nay sao mà dịu quá đỗi, cũng không gây khó chịu khi say.
Lời đối đáp qua lại giữa hai bên bờ tường ngày càng nhiều, từ thi từ đến thiên hạ, từ chiến loạn đến những chuyện lông gà vỏ tỏi. Ông kể hết sạch, về mình khi còn là thần đồng cho đến lúc trở thành lão Khúc, về Thúy Nhi, về cậu thương binh. Ông kể hết cho bằng sạch những chuyện không thể nào quên trong đời mà ông hiếm khi nhắc đến cùng ai. Ông kể tờ giấy nợ mà ông viết khi hái trộm trái cây năm xưa cũng không phải viết chơi, mấy năm trước ông có đi ngang qua thôn đó và đã tới nhà trả tiền thật. Chủ nhà rất bất ngờ, nói thường xuyên có người hái trộm trái cây nhà họ, mà hái trộm cũng không sao, thời thế loạn lạc, ai cũng khổ. Lúc ông đi, chủ nhà còn tặng cho ông túi đào mới hái, rất ngọt, đến giờ ông vẫn còn nhớ hương vị của nó. Ông còn kể chuyện hôm qua bị đánh, cảm thấy rất ấm ức, nhưng nhà sư nói đúng, người khác tin hay không thì ông cũng không phải bọn buôn người, quan trọng là đứa bé không bị chết oan, vậy đã tốt lắm rồi, chỉ cần nghĩ vậy thì ông không còn thấy ấm ức hay tức tối nữa.
"Tôi không phải ăn mày, cũng không phải bọn buôn người, tôi là tôi, tôi là Khúc Phục Lai!" Ông say mèm chỉ vào gương mặt đỏ bừng còn hơn thoa phấn,"Phục Lai trong Thiên kim tán tận hoàn phục lai(1)." Ông vừa nói vừa trượt xuống bức tường, ánh mắt lờ đờ nhìn bầu trời bao la xám xịt,"Nhưng mà... Cha tôi không còn nữa... Thúy Nhi không còn nữa... Cậu thương binh cũng không còn nữa... Tôi vốn rất trẻ, mà thoắt cái đã bạc đầu... Tuổi trẻ cũng không còn nữa... Bôn ba nửa đời người, trừ bộ quần áo cũ mèm rách rưới, tôi không có gì cả, đời tôi chả giống chút gì với cuộc sống mà tôi hằng mong ước."
(1) "Thiên kim tán tận hoàn phục lai" nằm trong bài thơ Thương Tiến Tửu của nhà thơ Lý Bạch, nghĩa toàn câu là "Nghìn vàng tiêu hết rồi lại đến" (bản dịch của Hoàng Tạo, Nam Trân). Phục lai có nghĩa là (cái gì mất rồi, hết rồi) sẽ lại có nữa.
"Uống nữa không?" Người bên kia bờ tường giơ ra một bầu rượu.
"Uống chứ! Rượu cùng tri kỷ ngàn ly thiếu! Sao lại không uống!" Ông nhận lấy bầu rượu rồi uống ừng ực, sau đó cố rướn người nhìn qua cái lỗ trên bức tường,"Công tử, hay tôi qua đó nhé? Công tử có muốn cụng chén không?"
"Thôi đừng." Công tử quả quyết từ chối,"Dung mạo ta xấu xí, không muốn gặp người khác. Nếu ông qua đây, ta sẽ đi ngay."
Ông cười to: "Đàn ông đàn ang sợ xấu cái gì. Cậu còn trẻ mà đã có tầm nhìn và phong thái như thế này thì xấu mấy cũng thành đẹp. Nhưng cậu không muốn tôi qua đó thì thôi, ăn cơm uống rượu chứ không phải là thưởng hoa ngắm trăng, có nhìn thấy nhau hay không cũng chẳng hề hấn gì."
Rượu và thức ăn vơi được một nửa, cả hai đều ợ một cái rõ to.
"Ông muốn sống cuộc đời như thế nào?" Công tử bỗng hỏi.
Ông ợ một hơi, cười khà khà, vừa đưa tay chỉ quanh vừa nói: "Tôi có mười thửa ruộng vàng/ Nép mình bên phía sườn nam núi này. Thanh... thanh tùng... thanh tùng..."
"Thanh tùng mọc bốn năm cây/ Đậu kia ba luống cho đầy đất xanh. Nóng thời mình tắm ao trong/ Lạnh thời ta đứng hát vang trên bờ(2)." Công tử tiếp lời ông, giúp ông không phải lắp bắp thêm nữa.
(2) Trích từ bài thơ "Tôi có mười thửa ruộng" của Vương Phạm Chí.
"Đúng rồi, đúng rồi, không lệch chữ nào!" Ông vỗ tay khoái chí,"Cuộc sống tốt đẹp là như thế đấy. Tôi ấy à..." Ông thả tay xuống, nặng nề ngồi dựa vào vách tường,"Tôi phải đợi thêm chút nữa, hẳn là sắp rồi."
Những bông tuyết lưa thưa sẽ sàng rơi xuống trong cơn gió lạnh buốt, còn chưa kịp chạm đất đã vội tan biến, thôi thì cũng coi như điềm lành báo hiệu cho một năm được mùa vậy.
"Vậy chờ thêm chút nữa." Bên kia bờ tường vang lên tiếng vải sột soạt, dường như vị công tử đã đứng lên,"Hôm nay là mùng Một Tết, không ngờ lại được ăn bữa cơm với người hợp ý, ta thấy rất vui. Chúc mừng năm mới, phát tài phát lộc nhé."
Ông ngẩn người, chợt bật cười: "Đã mấy mươi năm chưa nghe ai chúc Tết tôi hết. Cậu xem kìa, tôi ăn cơm của cậu mà cũng chẳng có gì trả nghĩa." Ông lục tung bộ quần áo cũ kỹ trên người mình, sau đó lấy ra một chiếc khóa đồng gỉ sét và méo mó: "Đây là ổ khóa cổng của nhà tôi, vốn nó bị hư, sau đó tôi đã sửa lại, năm ấy tôi mười một tuổi. Trước lúc lâm chung, cha tôi dặn phải biết chăm sóc bản thân, tôi nói với cha đến cả ổ khóa cổng nhà mình tôi còn sửa được thì sao lại không chăm sóc được bản thân chứ. Bao năm qua, tôi không trộm cướp, không ăn xin, tuy sống vất vả nhưng ít nhất là không chết, sau này có xuống suối vàng gặp ông già thì tôi cũng có thể thẳng lưng nhìn ông ấy. Hôm nay chúng ta có duyên gặp gỡ, tôi muốn tặng ổ khóa cho cậu coi như quà kỷ niệm, tuy không đáng tiền nhưng biết đâu lại là vật may mắn, ha ha."
Một bàn tay nhận lấy ổ khóa, dường như vị công tử ấy còn cười khẽ.
"Vậy ta xin nhận."
"Công tử phải về à?" Ông hỏi.
"Cơm nước no nê, đến lúc phải về rồi." Bên kia bờ tường vang lên tiếng thu dọn đồ đạc.
"Chẳng hay đại danh quý tính công tử là gì? Hôm nào chúng ta lại cùng ăn với nhau bữa cơm nhé?"
"Nào dám quý tính gì đâu... Ta họ Tiển. Còn hôm nào ấy à... E là phải hai mươi năm nữa. Nếu hai mươi năm sau ông vẫn còn nhớ bữa cơm hôm nay thì hãy tới đây gặp nhau."
"Hai mươi năm?" Ông muốn hỏi vì sao phải lâu đến vậy nhưng sau cùng vẫn không hỏi, chỉ cười, nói: "Hai mươi năm sau tôi sẽ ở đây."
"Ừm. Cáo từ."
"Cáo từ."
Bên kia bờ tường, tiếng bước chân nhỏ dần rồi biến mất hẳn, căn nhà hoang lại im ắng như thường ngày, nhưng có lẽ vì bếp lửa nấu cơm vẫn còn hơi khói còn sót lại nên nơi đây không còn cảm giác xơ xác và tịch liêu như trước nữa.
Cơ thể rất ấm, hôm nay là ngày dễ chịu nhất trong suốt mười mấy mùa đông qua, đẹp tựa một giấc mơ.
Ông ngồi thêm lát nữa, mãi đến khi tuyết rơi càng lúc càng dày, ông mới đứng dậy rời đi.
Cứ đi vài bước ông lại ngoái đầu một lần, hẳn là còn hơi say vì ông có cảm giác như trên đường không chỉ có mỗi mình mình. Ông lắc mạnh đầu, nghĩ mình đã tự lo cho bản thân lâu nhường này rồi, thêm hai mươi năm nữa thì có làm sao. Ông ngẩng đầu, tuyết đậu lên hàng lông mày của ông.
Tết nhất, không nên khóc, hãy cười lên.
Hết chương 5. 4
Bạn cần đăng nhập để bình luận