Biên Niên Sử Narnia 3, Con Ngựa Và Cậu Bé
Biên Niên Sử Narnia 3, Con Ngựa Và Cậu Bé - Chương 06: Một đêm giữa những ngôi mộ cổ
Shasta rón rén nhón chân chạy qua mái nhà nóng giãy lên dưới đôi bàn
chân trần của nó.
Chỉ vài phút sau, nó đã bò sang được bức tường và cứ
men theo tường mà đi đến một góc vườn, từ trên nhìn xuống nó thấy một
đường phố nhỏ hẹp, hôi hám, có một đống rác to tướng ở ngay bên ngoài
bức tường như Corin đã nói.
Trước khi nhảy xuống, nó liếc nhìn xung
quanh để xem mình đang ở đâu.
Rõ ràng, bây giờ nó đang đứng trên độ cao
nhất của hòn đảo mà từ đó Tashbaan mọc lên.
Mọi thứ đều thoai thoải chạy
xuống trước mắt nó, những mái nhà bằng phẳng bên dưới các mái nhà bằng
chằn chặn khác, ở bên dưới nữa là các tháp canh và các bức tường có lỗ
châu mai chĩa lên từ tường thành phía bắc.
Bên ngoài tường thành là dòng
sông và ngoài dòng sông là một sườn dốc thoai thoải mọc đầy những hàng
cây lâu năm, xa hơn nữa là một cái gì mà nó chưa từng trông thấy trong đời,
một cái gì xam xám ngả sang vàng, rộng mênh mông; phẳng lặng như mặt
biển êm ả, trải dài hàng dặm.
Ở ngoài cái đường viền xa tít tắp của nó là
một quần thể màu xanh rất lớn nhưng lồi lõm với những góc cạnh lởm
chởm, một số có đỉnh trắng xóa.
"Hoang mạc! Núi!"
Shasta nghĩ.
Nó nhảy xuống đống rác và chạy lọt tọt xuống đồi thật nhanh trong khả
năng cho phép.
Nó chạy xuống một đường hẻm hẹp, chẳng bao lâu nó đã
đến một đường phố rộng hơn có nhiều người hơn.
Không có ai bận tâm để
mắt đến một thằng bé rách rưới đang chạy thục mạng trên đôi chân trần.
Nó
vẫn lo sợ và căng thẳng cho đến khi rẽ vào một khúc quẹo và từ đó nhìn
thấy cổng thành ngay trước mặt.
Ở đây nó lại bị dồn ép, xô đẩy một cách
thô bạo vì có rất nhiều người cũng muốn mau chóng ra ngoài thành; trên
chiếc cầu ngoài cổng, đám đông bắt đầu di chuyển chậm lại, giống như
người ta đang đứng xếp hàng hơn là một đám đông.
Thật là khoan khoái khi
đứng bên ngoài cổng thành, nghe tiếng nước chảy hai bên thành cầu, hít thở
bầu không khí trong lành, dễ chịu sau khi đã chịu đựng cái nóng, tiếng ồn
và cái mùi không lấy gì làm dễ chịu của Tashbaan.
Shasta đã sang được đầu cầu bên kia, nó thấy đám đông tản dần, ai cũng
hoặc đi về bên trái hoặc đi về bên phải dọc theo bờ sông.
Nó đi thẳng con
đường trước mặt chạy giữa các khu vườn có vẻ như không có nhiều dấu
chân lại qua như những con đường khác.
Mới đi được một lát nó đã thấy
mình chỉ còn một mình và đi thêm một chút nữa nó thấy mình đang đi lên
đỉnh dốc. Đến đây nó đứng lại, nhìn quanh.
Cứ như thể đây là nơi tận cùng
thế giới bởi vì chỉ cách nó vài mét, bãi cỏ xanh thình lình chấm dứt và cát
bắt đầu: cát mênh mông, phẳng lặng như trên bãi biển chỉ có điều không
mặn vì nó không bao giờ ướt.
Những rặng núi lúc này trông xa xôi hơn bao
giờ hết, mà lại có vẻ như muốn đe dọa khách bộ hành đơn độc.
Đi thêm một đoạn nữa, nó trông thấy bên tay trái là một nơi chắc phải là
khu lăng tẩm nếu theo lời mô tả của Bree; những tảng đá lớn có hình dáng
như những tổ ong khổng lồ.
To lù lù, đen thẫm, hắc ám, những ngôi mộ cổ
này cau có nhìn Shasta, trong lúc mặt trời đang đi xuống phía sau lưng.
Shasta biết chắc đó là hướng tây và chạy vội về phía khu lăng tẩm.
Nó
không thể không nhìn quanh, tìm kiếm bất cứ dấu hiệu nào của các bạn
mặc dầu ánh mặt trời buổi hoàng hôn chiếu thẳng vào mặt nó khiến nó khó
có thể nhìn thấy bất cứ cái gì. "Tất nhiên, - nó thầm nghĩ, - họ sẽ ở phía xa
nhất chứ không ở phía này nơi ai cũng có thể thấy họ đi từ thành phố đến."
Có tất cả mười hai ngôi mộ, mỗi cái có một cái cổng có mái che thâm
thấp dẫn đến một khoảng không đen tối, sâu hun hút.
Các ngôi mộ không
được xây theo một thứ tự nào cả vì thế phải mất khá nhiều thời gian đi
quanh hết ngôi mộ này đến ngôi mộ kia để biết chắc là bạn đã bao quát cả
bốn mặt của tất cả các ngôi mộ. Đó là điều Shasta đã làm và nó không hề
thấy một bóng người quanh đây.
Không gian tuyệt đối tĩnh lặng nhất là ở một nơi bắt đầu hoang mạc như
nơi này và bây giờ mặt trời đã biến mất hoàn toàn.
Bất thình lình từ một nơi nào đó phía sau lưng Shasta vang lên một
tiếng động khủng khiếp.
Tim nó nhảy thót lên tận cổ, nó phải cắn vào lưỡi
để không hét lên.
Chỉ vài giây sau nó nhận ra đó là tiếng tù và trong thành
Tashbeen thổi lên vào lúc đóng cổng thành. "Đừng có biến mình thành một
kẻ nhát gan, ngu ngốc như vậy chứ. - Nó tự mắng mình. - Thật ngớ ngẩn,
đó cũng là cái âm thanh mình đã nghe thấy hồi sáng."
Nhưng rõ ràng có
một sự khác biệt lớn giữa một âm thanh bạn nghe thấy trong lúc đi cùng với
bạn bè vào lúc sáng tinh mơ với cái tiếng động bạn nghe thấy khi chỉ có
một mình ở một nơi vắng vẻ thê lương với những xác thối rữa của các vị
hoàng đế vào cái lúc ánh ngày đã tắt.
Bây giờ khi cổng thành đã đóng lại
Shasta biết không có cơ hội gặp lại bạn bè vào đêm nay.
Hoặc là họ bị nhốt
lại trong thành Tashbaan, - Shasta nghĩ, - hoặc là họ đã đi tiếp mà không đợi
mình. Đó là điều mà Aravia sẽ làm.
Nhưng Bree thì không đâu.
Ồ, nó
không làm như thế, phải không?
Nghĩ như thế về Aravis, thêm một lần nữa Shasta lại phạm sai lầm.
Cô
bé có thể rất kiêu hãnh và khắc nghiệt nhưng cô cũng trung thực như một
lưỡi kiếm và không bao giờ bỏ rơi bạn bè dù cô có thích người ấy hay
không.
Bây giờ thì Shasta hiểu là nó phải ở cả đêm một mình và nó bắt đầu e sợ nơi này hơn.
Có một cái gì đầy
khủng bố trong những tảng đá lớn câm lặng này.
Nó đã cố hết sức để không
nghĩ đến những hồn ma nhưng nó không thể chịu đựng lâu hơn nữa.
- Ôi! Cứu! Cứu!
- Bất thần nó la lên bởi vì đúng lúc đó nó cảm thấy có
cái gì chạm vào chân mình.
Tôi không nghĩ là có gì đáng trách khi bất cứ
một ai hét lên khi có một cái gì đến từ phía sau anh ta và chạm vào người
anh ta; không đâu nếu ở một nơi như thế này và trong thời điểm mà anh ta
đã sợ đến chín phần rồi.
Dù sao thì Shasta cũng không quá sợ đến mức phải
bỏ chạy.
Bất cứ cái gì cũng còn tốt hơn là bị đuổi vòng vòng trong khu mộ
cổ, nơi an nghỉ cuối cùng của những vị hoàng đế cổ đại, bởi có một cái gì
đó làm nó không dám ngoái lại sau lưng.
Thay vì thế nó làm cái điều tỉnh
táo nhất mà nó có thể nghĩ ra.
Nó nhìn sang một bên, trái tim như nổ ra vì
nhẹ nhõm.
Chạm vào người nó chỉ là một con mèo.
Ánh sáng quá yếu để soi cho Shasta nhìn rõ con mèo trừ một điều - là
nó rất to và uy nghiêm.
Có vẻ như nó đã sống một mình ở đây từ rất lâu rồi.
Đôi mắt của nó khiến cho bạn nghĩ nó biết những bí mật nhưng nó sẽ không
đời nào tiết lộ cho bạn.
- Miu! Miu!
- Shasta nói với nó. - Ta hi vọng ngươi không phải là con
mèo biết nói.
Con mèo nhìn nó chăm chú hơn, đoạn đủng đỉnh bỏ đi và tất nhiên
Shasta đi theo nó.
Mèo dẫn nó đi qua các ngôi mộ, hướng về phía sa mạc
hoang vu. Đến đây con mèo ngồi xuống, lưng thẳng tắp với cái đuôi cuộn
quanh chân, đôi mắt nhìn ra xa xăm về phía Narnia và miền Bắc và nó cứ
ngồi thế hồi lâu dáng im lìm như thể nó đang quan sát một kẻ thù giấu mặt.
Shasta nằm xuống bên cạnh, lưng quay về phía con mèo, mặt hướng về
lăng tẩm bởi vì nếu bạn đang lo sợ thì không có gì tốt hơn việc nhìn thẳng
vào nguy cơ ấy trong khi cảm thấy có một cái gì đó ấm áp và vững vàng sau
lưng.
Cát không phải là một cái gì êm ái dễ chịu đối với bất cứ ai nhưng
Shasta đã sống trong cảnh màn trời chiếu đất hàng mấy tuần lễ rồi nên nó
cũng khó nhận ra điều đó.
Chẳng bao lâu sau nó cũng ngủ thiếp đi, mặc dầu
trong mơ nó vẫn tiếp tục tự hỏi chuyện gì đã xảy ra với Bree, với Aravis và
Hwin.
Nó bất thần thức giấc bởi một âm thanh chưa hề nghe thấy trước đó.
"Có lẽ đó chỉ là một cơn ác mộng."
Shasta tự nhủ.
Cùng lúc đó nó nhận ra
con mèo đã biến mất mà nó ước gì con mèo đừng bỏ đi như thế.
Nhưng nó
vẫn nằm im không nhúc nhích cũng không hề mở mắt ra bởi vì nó biết chắc
là nó sẽ còn phát hoảng hơn nếu nó ngồi dậy nhìn về những ngôi mộ và
cảnh hoang vu xung quanh: điều này cũng tựa như cảnh bạn hoặc tôi đang
nằm im phăng phắc với tấm vải trải giường trùm kín lên đầu.
Tiếng động
đầy đe dọa nọ lại vang lên lần nữa - một tiếng kêu chói tai, the thé vang lên
từ phía sa mạc sau lưng Shasta.
Thế là tất nhiên nó buộc phải mở choàng
mắt ra và ngồi dậy.
Trăng sáng như ban ngày.
Những ngôi mộ cổ - to hơn và gần hơn là nó
tưởng - có màu tro tai tái dưới ánh trăng.
Thật là mỗi lăng mộ đều giống
một người khổng lồ cổ quái, trùm lên người một cái áo dài màu xám che
kín cả đầu và mặt. Đó không phải là một cái gì đó bạn muốn nhìn lần thứ
hai lúc bạn buộc phải trải qua một đêm dài một mình ở một nơi thê lương
đáng sợ.
Nhưng tiếng động lại vang lên ở hướng đối diện, từ hoang mạc,
Shasta lại phải quay lưng lại khu lăng tẩm và nhìn chằm chằm về phía biển cát phẳng lặng.
Tiếng kêu man
dại lại vang lên một lần nữa.
"Mình hi vọng không phải là mấy con sư tử nữa."
- Shasta nghĩ.
sự thật
thì tiếng kêu này không có gì giống với tiếng sư tử gầm vào cái đêm thằng
bé gặp Aravis và Hwin mà là tiếng kêu của lũ chó rừng.
Nhưng tất nhiên
Shasta không biết điều này.
Và dẫu có biết thì nó cũng không muốn gặp một
con chó rừng đâu.
Tiếng kêu lại vang lên lần nữa rồi lần nữa. "Dù đó là loài động vật gì thì
cũng không chỉ có một vài con, - Shasta thầm nghĩ. - Và chúng mỗi lúc một
tiến lại gần hơn".
Tôi tin rằng nếu Shasta là một cậu bé thông minh, từng trải, biết phán
đoán nó sẽ hiểu rằng nó nên đi qua khu lăng tẳm để đến gần bờ sông hơn, ở
những nơi có người, thú hoang không dám đến quá gần.
Nhưng Shasta lại
sợ ma, ít nhất thì nó cũng nghĩ là có thể có ma.
Quay lại khu lăng tẩm có
nghĩa là đi qua những cái cửa mở vào cái bụng đen ngòm của các nhà mồ
và cái gì sẽ đi ra từ đấy? Điều này có thể là ngu ngốc nhưng Shasta cảm
thấy thà là nó liều mạng với thú hoang còn hơn.
Tuy vậy, khi tiếng tru
hoang dại của bọn chó rừng mỗi lúc một gần hơn thì nó đổi ý.
Nó toan bỏ chạy thì thình lình một con vât to lù lù xuất hiện.
Trăng sáng
nhưng lại ở phía sau con vật nên Shasta chỉ thấy một khối đen lừng lững có
một cái đầu bờm xờm rất lớn và nó đi bằng bốn chân.
Hình như con vật
không thấy Shasta, bởi vì nó bất thần dùng lại, quay đầu về phía sa mạc và
làm thoát ra một tiếng gầm được các ngôi mộ dội lại thành tiếng sấm rền
làm rung chuyển cả mặt đất dưới chân Shasta.
Khi tiếng tru của các con vật
khác lập tức im bặt thì Shasta nghĩ nó có thể nghe thấy tiếng những bước
chân lặng lẽ chuồn ra xa.
Chỉ đến lúc ấy con thú khổng lồ mới quay đầu
nhìn Shasta.
"Một con sư tử, trời đất ơi, đó là một con sư tử. - Shasta nghĩ. - Mình
hết đời rồi! Không hiểu là chuyện đó có đau đớn lắm không. Ước gì nó
xong phắt cho rồi.
Không biết có bất cứ chuyện gì xảy ra sau khi người ta
chết không.
Ô...
ôi ôi...
Nó tới rồi."
Và Shasta nhắm nghiền mắt lại, hai hàm
răng nghiến chặt.
Nhưng thay cho răng nanh và vuốt ngọn nó lại cảm thấy có cái gì ấm áp
phục xuống cạnh chân nó.
Một lúc sau nó he hé mắt ra nhìn, rồi bật lên
thành tiếng: "Sao thế nhỉ, nó không to kinh khủng như mình hình dung.
Chỉ
bằng một nửa.
Mình dám thề đó chỉ là một con mèo.
Quái lạ, sao mình có
thể nghĩ là nó to hơn cả một con ngựa thồ?"
Chính Shasta cũng không rõ mình có nằm mơ hay không, bởi vì con vật
đang nằm dưới chân thằng bé, nhìn nó chăm chăm bằng đôi mắt to, màu
xanh lá cây không hề chớp với một cái nhìn thấu suốt lại chính là một con
mèo, dù chắc chắn là con mèo lớn nhất mà bạn từng thấy trong đời.
- Ôi miu ơi, - Shasta hổn hển nói, - tao thật mừng khi gặp lại mày lần
nữa.
Tao đang sống trong những giấc mơ thật hãi hùng.
Một lần nữa, nó lại nằm xuống, đấu lưng lại với con mèo như người và
vật đã là thế vào lúc chập tối.
Hơi ấm từ con vật truyền cả sang thằng bé.
- Tao sẽ không bao giờ làm gì có hại đối với bất cứ một con mèo nào,
chừng nào tao còn sống trên đời. - Shasta nói, nửa với con mèo nửa với
chính mình. - Mày biết không, tao đã có lần làm như thế đấy.
Tao...
tao ném
đá vào một con mèo hoang đói khát làm nó suýt chết.
Ê này, mày làm cái gì
vậy? - Bởi vì mèo quay lại cào vào Shasta một cái. - Ồ không, không có
chuyện như thế. - Shasta nói. - Chẳng có lẽ chú mày cũng là một con vật
hiểu được điều tao nói hay sao?
Nhưng chẳng bao lâu nó ngủ thiếp đi.
Sáng hôm sau thức dậy, con mèo đã đi đâu mất, mặt trời cũng đã lên cao
và cát nóng bỏng.
Cảm thấy khát cháy cổ, Shasta ngồi dậy, dụi dụi mắt.
Sa
mạc trắng xóa một màu chói chang và mặc dầu vẫn nghe âm âm tiếng vọng
xa xôi của một thành phố trở dậy cho một ngày mới, chỗ nó ngồi tuyệt đối
yên tĩnh.
Nó nhìn sang bên trái về hướng tây nơi mặt trời không làm nó chói
mắt và có thể nhìn thấy những dãy núi xanh xanh hiện lên trên cát trắng.
Những đường viền của các ngọn núi hiện lên rõ ràng, sắc nét đến độ trông
như thể chúng chỉ cách thằng bé bằng khoảng cách ném đi một hòn đá.
Nó
có thể phân biệt được một quả núi cao, xanh biếc chia ra làm hai đỉnh và
cho rằng đó chính là ngọn Mount Pire. "Đó là hướng đi của chúng ta theo
lời quạ nói, - nó thầm nghĩ, - như thế ta có thể biết rõ đường đi nước bước
mà không cần phí thời gian mỏi cổ ngồi đợi những người kia."
Nghĩ thế nó
đứng lên đánh dấu hướng đi về phía đỉnh Mount Pire bằng cách ấn mạnh
những dấu chân nhỏ bé, chắc nịnh xuống cát.
Việc tiếp theo cần phải làm là kiếm cái gì cho vào bụng.
Shasta bèn
quay lại khu lăng tẩm - nơi này trông hết sức bình thường dưới ánh sáng
ban ngày và nó tự hỏi sao có lúc nó lại sợ chỗ này đến thế.
Nó thong thả
xuôi xuống vùng đất canh tác bên bờ sông.
Ở đấy có một số người qua lại
nhưng không đông lắm vì cổng thành đã mở được vài giờ và đám đông sáng
sáng tụ tập bên ngoài cũng đã vào thành.
Nó không gặp khó khăn gì trong
việc "đột kích". "Đột kích" liên quan đến việc mắt
trước mắt sau nhảy qua một bức tường bao quanh một khu vườn nhanh tay
vặt cái nọ, hái cái kia, kết quả nó kiếm được ba trái cam, một trái dưa hấu,
một hoặc hai trái vả và một trái lựu.
Sau đó nó đi xuống bờ sông, nhưng
không đến quá gần cầu và uống no một bụng nước.
Nước sông trong leo
lẻo, mát rười rượi, thế là nó cởi phắt bộ quần áo vừa nhơm nhớp mồ hôi vừa
dày chình chịch vì bụi đường ra, ngụp luôn cả người xuống nước, lặn một
hơi dài.
Tất nhiên, Shasta là dân biển, cả một đời lớn lên bên sông nước, nó
đã tập bơi hầu như cũng cùng lúc với tập đi.
Tắm xong nó lên bờ, ngả người
trên bãi cỏ nhìn qua dòng sông về phía Tashbaan - một lần nữa lại ngắm vẻ
tráng lệ, sức mạnh và ánh hào quang của chốn kinh kỳ.
Nhưng đồng thời
thằng bé cũng chạnh nghĩ đến những cạm bẫy của nơi này.
Chợt nó nhận ra
là có thể những người kia đã đến khu lăng tẩm trong lúc nó tắm sông - thế là nó vội
vội vàng vàng mặc lại bộ quần áo bẩn thỉu, xấu xí và chạy hùng hục đến
lăng tẩm.
Chạy được đến nơi cũng là lúc nó vừa nóng vừa khát và thế là
thật uổng công tắm trong dòng nước mát.
Khi bạn chỉ có một mình và đang nóng lòng chờ đợi một chuyện gì đó
thì ngày kéo dài hàng trăm giờ.
Shasta có nhiều chuyện phải nghĩ và tất
nhiên khi ngồi một mình nghĩ ngợi ngày lại càng dài thêm.
Nó nghĩ đến
những người Narnia và đặc biệt là đến hoàng tử Corin.
Nó tự hỏi chuyện gì
sẽ xảy ra khi họ khám phá ra là thằng bé nằm trên ghế sô pha nghe lỏm toàn
bộ các kế hoạch bí mật của họ thực ra không phải là Corin.
Thật là một cảm
giác bứt rứt, khó chịu khi nghĩ rằng tất cả những con người đáng mến ấy lại
cho rằng nó là một người phản bội.
Trong lúc mặt trời khệnh khạng đi từ chân trời lên đến đỉnh đầu rồi lại
từ từ đi xuống về phía tây mà vẫn không có ai tới mà cũng chẳng có chuyện
gì xảy ra, Shasta càng lúc càng cảm thấy nóng ruột, bồn chồn.
Tất nhiên nó
nhận ra là khi quy ước với nhau họ chỉ quy ước địa điểm gặp chứ không
thỏa thuận sẽ đợi trong bao lâu.
Nó không thể đợi ở đây suốt đời.
Chẳng
bao lâu nữa ánh sáng sẽ lại tắt và nó không muốn trải qua một đêm như đêm
hôm trước nữa.
Hàng chục kế hoạch lướt qua đầu nó, cái nào cũng bất khả
thi và cuối cùng nó chọn một kế hoạch tệ hơn tất cả.
Nó quyết định đợi cho
đến khi trời tối sẽ quay lại bờ sông, ăn trộm vài quả dưa hấu trong khả năng
nó có thể mang được rồi một mình đi đến Mount Pire, tin tưởng vào con
đường mà nó đã đánh dấu trên cát sáng nay.
Thật là một ý nghĩ rồ dại và
nếu nó đọc những cuốn sách viết về các cuộc hành trình qua sa mạc nó sẽ
không bao giờ có cái ý nghĩ ngớ ngẩn ấy.
Tiếc thay Shasta chả đọc sách bao
giờ.
Nhưng trước khi mặt trời lặn đã có một chuyện xảy ra.
Shasta đang ngồi
trong cái bóng râm của một nhà mồ thì nó ngẩng đầu lên và nhìn thấy hai
con ngựa đang phóng về phía mình.
Tim nó nảy lên một cái khi nó nhân ra
đó là Bree và Hwin.
Nhưng chỉ một giây sau, trái tim lại tụt xuống tận đầu
ngón chân.
Không thấy bóng Aravis đâu.
Hai con ngựa phóng đi dưới sự điều khiển của một người đàn ông lạ mặt, khắp người đeo đầy binh khí, bộ
chế phục trang nhã cho biết đấy là một đầy tớ cấp cao trong một gia đình
quyền quý.
Bree và Hwin không còn là những con ngựa thồ nữa mà được
đóng đầy đủ yên cương. Điều này có nghĩa gì? "Một cái bẫy chăng? -
Shasta nghĩ. - Có ai đó đã bắt được Aravis, có lẽ họ đã tra tấn nó và nó đã
khai ra tất cả.
Họ muốn mình chạy ra khỏi chỗ nấp, nói chuyện với Bree rồi
bắt mình luôn! Nếu mình không làm thế, mình sẽ không còn cơ hội gặp gõ
họ nữa.
Ôi, sao mình mong được biết chuyện gì đã xảy ra thế."
Nghĩ bụng,
nó lại nấp kín trong một nhà mồ, đứng bên trong nhìn ra và tự hỏi cần phải
làm gì để bớt những rủi ro.
chân trần của nó.
Chỉ vài phút sau, nó đã bò sang được bức tường và cứ
men theo tường mà đi đến một góc vườn, từ trên nhìn xuống nó thấy một
đường phố nhỏ hẹp, hôi hám, có một đống rác to tướng ở ngay bên ngoài
bức tường như Corin đã nói.
Trước khi nhảy xuống, nó liếc nhìn xung
quanh để xem mình đang ở đâu.
Rõ ràng, bây giờ nó đang đứng trên độ cao
nhất của hòn đảo mà từ đó Tashbaan mọc lên.
Mọi thứ đều thoai thoải chạy
xuống trước mắt nó, những mái nhà bằng phẳng bên dưới các mái nhà bằng
chằn chặn khác, ở bên dưới nữa là các tháp canh và các bức tường có lỗ
châu mai chĩa lên từ tường thành phía bắc.
Bên ngoài tường thành là dòng
sông và ngoài dòng sông là một sườn dốc thoai thoải mọc đầy những hàng
cây lâu năm, xa hơn nữa là một cái gì mà nó chưa từng trông thấy trong đời,
một cái gì xam xám ngả sang vàng, rộng mênh mông; phẳng lặng như mặt
biển êm ả, trải dài hàng dặm.
Ở ngoài cái đường viền xa tít tắp của nó là
một quần thể màu xanh rất lớn nhưng lồi lõm với những góc cạnh lởm
chởm, một số có đỉnh trắng xóa.
"Hoang mạc! Núi!"
Shasta nghĩ.
Nó nhảy xuống đống rác và chạy lọt tọt xuống đồi thật nhanh trong khả
năng cho phép.
Nó chạy xuống một đường hẻm hẹp, chẳng bao lâu nó đã
đến một đường phố rộng hơn có nhiều người hơn.
Không có ai bận tâm để
mắt đến một thằng bé rách rưới đang chạy thục mạng trên đôi chân trần.
Nó
vẫn lo sợ và căng thẳng cho đến khi rẽ vào một khúc quẹo và từ đó nhìn
thấy cổng thành ngay trước mặt.
Ở đây nó lại bị dồn ép, xô đẩy một cách
thô bạo vì có rất nhiều người cũng muốn mau chóng ra ngoài thành; trên
chiếc cầu ngoài cổng, đám đông bắt đầu di chuyển chậm lại, giống như
người ta đang đứng xếp hàng hơn là một đám đông.
Thật là khoan khoái khi
đứng bên ngoài cổng thành, nghe tiếng nước chảy hai bên thành cầu, hít thở
bầu không khí trong lành, dễ chịu sau khi đã chịu đựng cái nóng, tiếng ồn
và cái mùi không lấy gì làm dễ chịu của Tashbaan.
Shasta đã sang được đầu cầu bên kia, nó thấy đám đông tản dần, ai cũng
hoặc đi về bên trái hoặc đi về bên phải dọc theo bờ sông.
Nó đi thẳng con
đường trước mặt chạy giữa các khu vườn có vẻ như không có nhiều dấu
chân lại qua như những con đường khác.
Mới đi được một lát nó đã thấy
mình chỉ còn một mình và đi thêm một chút nữa nó thấy mình đang đi lên
đỉnh dốc. Đến đây nó đứng lại, nhìn quanh.
Cứ như thể đây là nơi tận cùng
thế giới bởi vì chỉ cách nó vài mét, bãi cỏ xanh thình lình chấm dứt và cát
bắt đầu: cát mênh mông, phẳng lặng như trên bãi biển chỉ có điều không
mặn vì nó không bao giờ ướt.
Những rặng núi lúc này trông xa xôi hơn bao
giờ hết, mà lại có vẻ như muốn đe dọa khách bộ hành đơn độc.
Đi thêm một đoạn nữa, nó trông thấy bên tay trái là một nơi chắc phải là
khu lăng tẩm nếu theo lời mô tả của Bree; những tảng đá lớn có hình dáng
như những tổ ong khổng lồ.
To lù lù, đen thẫm, hắc ám, những ngôi mộ cổ
này cau có nhìn Shasta, trong lúc mặt trời đang đi xuống phía sau lưng.
Shasta biết chắc đó là hướng tây và chạy vội về phía khu lăng tẩm.
Nó
không thể không nhìn quanh, tìm kiếm bất cứ dấu hiệu nào của các bạn
mặc dầu ánh mặt trời buổi hoàng hôn chiếu thẳng vào mặt nó khiến nó khó
có thể nhìn thấy bất cứ cái gì. "Tất nhiên, - nó thầm nghĩ, - họ sẽ ở phía xa
nhất chứ không ở phía này nơi ai cũng có thể thấy họ đi từ thành phố đến."
Có tất cả mười hai ngôi mộ, mỗi cái có một cái cổng có mái che thâm
thấp dẫn đến một khoảng không đen tối, sâu hun hút.
Các ngôi mộ không
được xây theo một thứ tự nào cả vì thế phải mất khá nhiều thời gian đi
quanh hết ngôi mộ này đến ngôi mộ kia để biết chắc là bạn đã bao quát cả
bốn mặt của tất cả các ngôi mộ. Đó là điều Shasta đã làm và nó không hề
thấy một bóng người quanh đây.
Không gian tuyệt đối tĩnh lặng nhất là ở một nơi bắt đầu hoang mạc như
nơi này và bây giờ mặt trời đã biến mất hoàn toàn.
Bất thình lình từ một nơi nào đó phía sau lưng Shasta vang lên một
tiếng động khủng khiếp.
Tim nó nhảy thót lên tận cổ, nó phải cắn vào lưỡi
để không hét lên.
Chỉ vài giây sau nó nhận ra đó là tiếng tù và trong thành
Tashbeen thổi lên vào lúc đóng cổng thành. "Đừng có biến mình thành một
kẻ nhát gan, ngu ngốc như vậy chứ. - Nó tự mắng mình. - Thật ngớ ngẩn,
đó cũng là cái âm thanh mình đã nghe thấy hồi sáng."
Nhưng rõ ràng có
một sự khác biệt lớn giữa một âm thanh bạn nghe thấy trong lúc đi cùng với
bạn bè vào lúc sáng tinh mơ với cái tiếng động bạn nghe thấy khi chỉ có
một mình ở một nơi vắng vẻ thê lương với những xác thối rữa của các vị
hoàng đế vào cái lúc ánh ngày đã tắt.
Bây giờ khi cổng thành đã đóng lại
Shasta biết không có cơ hội gặp lại bạn bè vào đêm nay.
Hoặc là họ bị nhốt
lại trong thành Tashbaan, - Shasta nghĩ, - hoặc là họ đã đi tiếp mà không đợi
mình. Đó là điều mà Aravia sẽ làm.
Nhưng Bree thì không đâu.
Ồ, nó
không làm như thế, phải không?
Nghĩ như thế về Aravis, thêm một lần nữa Shasta lại phạm sai lầm.
Cô
bé có thể rất kiêu hãnh và khắc nghiệt nhưng cô cũng trung thực như một
lưỡi kiếm và không bao giờ bỏ rơi bạn bè dù cô có thích người ấy hay
không.
Bây giờ thì Shasta hiểu là nó phải ở cả đêm một mình và nó bắt đầu e sợ nơi này hơn.
Có một cái gì đầy
khủng bố trong những tảng đá lớn câm lặng này.
Nó đã cố hết sức để không
nghĩ đến những hồn ma nhưng nó không thể chịu đựng lâu hơn nữa.
- Ôi! Cứu! Cứu!
- Bất thần nó la lên bởi vì đúng lúc đó nó cảm thấy có
cái gì chạm vào chân mình.
Tôi không nghĩ là có gì đáng trách khi bất cứ
một ai hét lên khi có một cái gì đến từ phía sau anh ta và chạm vào người
anh ta; không đâu nếu ở một nơi như thế này và trong thời điểm mà anh ta
đã sợ đến chín phần rồi.
Dù sao thì Shasta cũng không quá sợ đến mức phải
bỏ chạy.
Bất cứ cái gì cũng còn tốt hơn là bị đuổi vòng vòng trong khu mộ
cổ, nơi an nghỉ cuối cùng của những vị hoàng đế cổ đại, bởi có một cái gì
đó làm nó không dám ngoái lại sau lưng.
Thay vì thế nó làm cái điều tỉnh
táo nhất mà nó có thể nghĩ ra.
Nó nhìn sang một bên, trái tim như nổ ra vì
nhẹ nhõm.
Chạm vào người nó chỉ là một con mèo.
Ánh sáng quá yếu để soi cho Shasta nhìn rõ con mèo trừ một điều - là
nó rất to và uy nghiêm.
Có vẻ như nó đã sống một mình ở đây từ rất lâu rồi.
Đôi mắt của nó khiến cho bạn nghĩ nó biết những bí mật nhưng nó sẽ không
đời nào tiết lộ cho bạn.
- Miu! Miu!
- Shasta nói với nó. - Ta hi vọng ngươi không phải là con
mèo biết nói.
Con mèo nhìn nó chăm chú hơn, đoạn đủng đỉnh bỏ đi và tất nhiên
Shasta đi theo nó.
Mèo dẫn nó đi qua các ngôi mộ, hướng về phía sa mạc
hoang vu. Đến đây con mèo ngồi xuống, lưng thẳng tắp với cái đuôi cuộn
quanh chân, đôi mắt nhìn ra xa xăm về phía Narnia và miền Bắc và nó cứ
ngồi thế hồi lâu dáng im lìm như thể nó đang quan sát một kẻ thù giấu mặt.
Shasta nằm xuống bên cạnh, lưng quay về phía con mèo, mặt hướng về
lăng tẩm bởi vì nếu bạn đang lo sợ thì không có gì tốt hơn việc nhìn thẳng
vào nguy cơ ấy trong khi cảm thấy có một cái gì đó ấm áp và vững vàng sau
lưng.
Cát không phải là một cái gì êm ái dễ chịu đối với bất cứ ai nhưng
Shasta đã sống trong cảnh màn trời chiếu đất hàng mấy tuần lễ rồi nên nó
cũng khó nhận ra điều đó.
Chẳng bao lâu sau nó cũng ngủ thiếp đi, mặc dầu
trong mơ nó vẫn tiếp tục tự hỏi chuyện gì đã xảy ra với Bree, với Aravis và
Hwin.
Nó bất thần thức giấc bởi một âm thanh chưa hề nghe thấy trước đó.
"Có lẽ đó chỉ là một cơn ác mộng."
Shasta tự nhủ.
Cùng lúc đó nó nhận ra
con mèo đã biến mất mà nó ước gì con mèo đừng bỏ đi như thế.
Nhưng nó
vẫn nằm im không nhúc nhích cũng không hề mở mắt ra bởi vì nó biết chắc
là nó sẽ còn phát hoảng hơn nếu nó ngồi dậy nhìn về những ngôi mộ và
cảnh hoang vu xung quanh: điều này cũng tựa như cảnh bạn hoặc tôi đang
nằm im phăng phắc với tấm vải trải giường trùm kín lên đầu.
Tiếng động
đầy đe dọa nọ lại vang lên lần nữa - một tiếng kêu chói tai, the thé vang lên
từ phía sa mạc sau lưng Shasta.
Thế là tất nhiên nó buộc phải mở choàng
mắt ra và ngồi dậy.
Trăng sáng như ban ngày.
Những ngôi mộ cổ - to hơn và gần hơn là nó
tưởng - có màu tro tai tái dưới ánh trăng.
Thật là mỗi lăng mộ đều giống
một người khổng lồ cổ quái, trùm lên người một cái áo dài màu xám che
kín cả đầu và mặt. Đó không phải là một cái gì đó bạn muốn nhìn lần thứ
hai lúc bạn buộc phải trải qua một đêm dài một mình ở một nơi thê lương
đáng sợ.
Nhưng tiếng động lại vang lên ở hướng đối diện, từ hoang mạc,
Shasta lại phải quay lưng lại khu lăng tẩm và nhìn chằm chằm về phía biển cát phẳng lặng.
Tiếng kêu man
dại lại vang lên một lần nữa.
"Mình hi vọng không phải là mấy con sư tử nữa."
- Shasta nghĩ.
sự thật
thì tiếng kêu này không có gì giống với tiếng sư tử gầm vào cái đêm thằng
bé gặp Aravis và Hwin mà là tiếng kêu của lũ chó rừng.
Nhưng tất nhiên
Shasta không biết điều này.
Và dẫu có biết thì nó cũng không muốn gặp một
con chó rừng đâu.
Tiếng kêu lại vang lên lần nữa rồi lần nữa. "Dù đó là loài động vật gì thì
cũng không chỉ có một vài con, - Shasta thầm nghĩ. - Và chúng mỗi lúc một
tiến lại gần hơn".
Tôi tin rằng nếu Shasta là một cậu bé thông minh, từng trải, biết phán
đoán nó sẽ hiểu rằng nó nên đi qua khu lăng tẳm để đến gần bờ sông hơn, ở
những nơi có người, thú hoang không dám đến quá gần.
Nhưng Shasta lại
sợ ma, ít nhất thì nó cũng nghĩ là có thể có ma.
Quay lại khu lăng tẩm có
nghĩa là đi qua những cái cửa mở vào cái bụng đen ngòm của các nhà mồ
và cái gì sẽ đi ra từ đấy? Điều này có thể là ngu ngốc nhưng Shasta cảm
thấy thà là nó liều mạng với thú hoang còn hơn.
Tuy vậy, khi tiếng tru
hoang dại của bọn chó rừng mỗi lúc một gần hơn thì nó đổi ý.
Nó toan bỏ chạy thì thình lình một con vât to lù lù xuất hiện.
Trăng sáng
nhưng lại ở phía sau con vật nên Shasta chỉ thấy một khối đen lừng lững có
một cái đầu bờm xờm rất lớn và nó đi bằng bốn chân.
Hình như con vật
không thấy Shasta, bởi vì nó bất thần dùng lại, quay đầu về phía sa mạc và
làm thoát ra một tiếng gầm được các ngôi mộ dội lại thành tiếng sấm rền
làm rung chuyển cả mặt đất dưới chân Shasta.
Khi tiếng tru của các con vật
khác lập tức im bặt thì Shasta nghĩ nó có thể nghe thấy tiếng những bước
chân lặng lẽ chuồn ra xa.
Chỉ đến lúc ấy con thú khổng lồ mới quay đầu
nhìn Shasta.
"Một con sư tử, trời đất ơi, đó là một con sư tử. - Shasta nghĩ. - Mình
hết đời rồi! Không hiểu là chuyện đó có đau đớn lắm không. Ước gì nó
xong phắt cho rồi.
Không biết có bất cứ chuyện gì xảy ra sau khi người ta
chết không.
Ô...
ôi ôi...
Nó tới rồi."
Và Shasta nhắm nghiền mắt lại, hai hàm
răng nghiến chặt.
Nhưng thay cho răng nanh và vuốt ngọn nó lại cảm thấy có cái gì ấm áp
phục xuống cạnh chân nó.
Một lúc sau nó he hé mắt ra nhìn, rồi bật lên
thành tiếng: "Sao thế nhỉ, nó không to kinh khủng như mình hình dung.
Chỉ
bằng một nửa.
Mình dám thề đó chỉ là một con mèo.
Quái lạ, sao mình có
thể nghĩ là nó to hơn cả một con ngựa thồ?"
Chính Shasta cũng không rõ mình có nằm mơ hay không, bởi vì con vật
đang nằm dưới chân thằng bé, nhìn nó chăm chăm bằng đôi mắt to, màu
xanh lá cây không hề chớp với một cái nhìn thấu suốt lại chính là một con
mèo, dù chắc chắn là con mèo lớn nhất mà bạn từng thấy trong đời.
- Ôi miu ơi, - Shasta hổn hển nói, - tao thật mừng khi gặp lại mày lần
nữa.
Tao đang sống trong những giấc mơ thật hãi hùng.
Một lần nữa, nó lại nằm xuống, đấu lưng lại với con mèo như người và
vật đã là thế vào lúc chập tối.
Hơi ấm từ con vật truyền cả sang thằng bé.
- Tao sẽ không bao giờ làm gì có hại đối với bất cứ một con mèo nào,
chừng nào tao còn sống trên đời. - Shasta nói, nửa với con mèo nửa với
chính mình. - Mày biết không, tao đã có lần làm như thế đấy.
Tao...
tao ném
đá vào một con mèo hoang đói khát làm nó suýt chết.
Ê này, mày làm cái gì
vậy? - Bởi vì mèo quay lại cào vào Shasta một cái. - Ồ không, không có
chuyện như thế. - Shasta nói. - Chẳng có lẽ chú mày cũng là một con vật
hiểu được điều tao nói hay sao?
Nhưng chẳng bao lâu nó ngủ thiếp đi.
Sáng hôm sau thức dậy, con mèo đã đi đâu mất, mặt trời cũng đã lên cao
và cát nóng bỏng.
Cảm thấy khát cháy cổ, Shasta ngồi dậy, dụi dụi mắt.
Sa
mạc trắng xóa một màu chói chang và mặc dầu vẫn nghe âm âm tiếng vọng
xa xôi của một thành phố trở dậy cho một ngày mới, chỗ nó ngồi tuyệt đối
yên tĩnh.
Nó nhìn sang bên trái về hướng tây nơi mặt trời không làm nó chói
mắt và có thể nhìn thấy những dãy núi xanh xanh hiện lên trên cát trắng.
Những đường viền của các ngọn núi hiện lên rõ ràng, sắc nét đến độ trông
như thể chúng chỉ cách thằng bé bằng khoảng cách ném đi một hòn đá.
Nó
có thể phân biệt được một quả núi cao, xanh biếc chia ra làm hai đỉnh và
cho rằng đó chính là ngọn Mount Pire. "Đó là hướng đi của chúng ta theo
lời quạ nói, - nó thầm nghĩ, - như thế ta có thể biết rõ đường đi nước bước
mà không cần phí thời gian mỏi cổ ngồi đợi những người kia."
Nghĩ thế nó
đứng lên đánh dấu hướng đi về phía đỉnh Mount Pire bằng cách ấn mạnh
những dấu chân nhỏ bé, chắc nịnh xuống cát.
Việc tiếp theo cần phải làm là kiếm cái gì cho vào bụng.
Shasta bèn
quay lại khu lăng tẩm - nơi này trông hết sức bình thường dưới ánh sáng
ban ngày và nó tự hỏi sao có lúc nó lại sợ chỗ này đến thế.
Nó thong thả
xuôi xuống vùng đất canh tác bên bờ sông.
Ở đấy có một số người qua lại
nhưng không đông lắm vì cổng thành đã mở được vài giờ và đám đông sáng
sáng tụ tập bên ngoài cũng đã vào thành.
Nó không gặp khó khăn gì trong
việc "đột kích". "Đột kích" liên quan đến việc mắt
trước mắt sau nhảy qua một bức tường bao quanh một khu vườn nhanh tay
vặt cái nọ, hái cái kia, kết quả nó kiếm được ba trái cam, một trái dưa hấu,
một hoặc hai trái vả và một trái lựu.
Sau đó nó đi xuống bờ sông, nhưng
không đến quá gần cầu và uống no một bụng nước.
Nước sông trong leo
lẻo, mát rười rượi, thế là nó cởi phắt bộ quần áo vừa nhơm nhớp mồ hôi vừa
dày chình chịch vì bụi đường ra, ngụp luôn cả người xuống nước, lặn một
hơi dài.
Tất nhiên, Shasta là dân biển, cả một đời lớn lên bên sông nước, nó
đã tập bơi hầu như cũng cùng lúc với tập đi.
Tắm xong nó lên bờ, ngả người
trên bãi cỏ nhìn qua dòng sông về phía Tashbaan - một lần nữa lại ngắm vẻ
tráng lệ, sức mạnh và ánh hào quang của chốn kinh kỳ.
Nhưng đồng thời
thằng bé cũng chạnh nghĩ đến những cạm bẫy của nơi này.
Chợt nó nhận ra
là có thể những người kia đã đến khu lăng tẩm trong lúc nó tắm sông - thế là nó vội
vội vàng vàng mặc lại bộ quần áo bẩn thỉu, xấu xí và chạy hùng hục đến
lăng tẩm.
Chạy được đến nơi cũng là lúc nó vừa nóng vừa khát và thế là
thật uổng công tắm trong dòng nước mát.
Khi bạn chỉ có một mình và đang nóng lòng chờ đợi một chuyện gì đó
thì ngày kéo dài hàng trăm giờ.
Shasta có nhiều chuyện phải nghĩ và tất
nhiên khi ngồi một mình nghĩ ngợi ngày lại càng dài thêm.
Nó nghĩ đến
những người Narnia và đặc biệt là đến hoàng tử Corin.
Nó tự hỏi chuyện gì
sẽ xảy ra khi họ khám phá ra là thằng bé nằm trên ghế sô pha nghe lỏm toàn
bộ các kế hoạch bí mật của họ thực ra không phải là Corin.
Thật là một cảm
giác bứt rứt, khó chịu khi nghĩ rằng tất cả những con người đáng mến ấy lại
cho rằng nó là một người phản bội.
Trong lúc mặt trời khệnh khạng đi từ chân trời lên đến đỉnh đầu rồi lại
từ từ đi xuống về phía tây mà vẫn không có ai tới mà cũng chẳng có chuyện
gì xảy ra, Shasta càng lúc càng cảm thấy nóng ruột, bồn chồn.
Tất nhiên nó
nhận ra là khi quy ước với nhau họ chỉ quy ước địa điểm gặp chứ không
thỏa thuận sẽ đợi trong bao lâu.
Nó không thể đợi ở đây suốt đời.
Chẳng
bao lâu nữa ánh sáng sẽ lại tắt và nó không muốn trải qua một đêm như đêm
hôm trước nữa.
Hàng chục kế hoạch lướt qua đầu nó, cái nào cũng bất khả
thi và cuối cùng nó chọn một kế hoạch tệ hơn tất cả.
Nó quyết định đợi cho
đến khi trời tối sẽ quay lại bờ sông, ăn trộm vài quả dưa hấu trong khả năng
nó có thể mang được rồi một mình đi đến Mount Pire, tin tưởng vào con
đường mà nó đã đánh dấu trên cát sáng nay.
Thật là một ý nghĩ rồ dại và
nếu nó đọc những cuốn sách viết về các cuộc hành trình qua sa mạc nó sẽ
không bao giờ có cái ý nghĩ ngớ ngẩn ấy.
Tiếc thay Shasta chả đọc sách bao
giờ.
Nhưng trước khi mặt trời lặn đã có một chuyện xảy ra.
Shasta đang ngồi
trong cái bóng râm của một nhà mồ thì nó ngẩng đầu lên và nhìn thấy hai
con ngựa đang phóng về phía mình.
Tim nó nảy lên một cái khi nó nhân ra
đó là Bree và Hwin.
Nhưng chỉ một giây sau, trái tim lại tụt xuống tận đầu
ngón chân.
Không thấy bóng Aravis đâu.
Hai con ngựa phóng đi dưới sự điều khiển của một người đàn ông lạ mặt, khắp người đeo đầy binh khí, bộ
chế phục trang nhã cho biết đấy là một đầy tớ cấp cao trong một gia đình
quyền quý.
Bree và Hwin không còn là những con ngựa thồ nữa mà được
đóng đầy đủ yên cương. Điều này có nghĩa gì? "Một cái bẫy chăng? -
Shasta nghĩ. - Có ai đó đã bắt được Aravis, có lẽ họ đã tra tấn nó và nó đã
khai ra tất cả.
Họ muốn mình chạy ra khỏi chỗ nấp, nói chuyện với Bree rồi
bắt mình luôn! Nếu mình không làm thế, mình sẽ không còn cơ hội gặp gõ
họ nữa.
Ôi, sao mình mong được biết chuyện gì đã xảy ra thế."
Nghĩ bụng,
nó lại nấp kín trong một nhà mồ, đứng bên trong nhìn ra và tự hỏi cần phải
làm gì để bớt những rủi ro.
Bạn cần đăng nhập để bình luận